Những trận đấu nghẹt thở của Bộ đội tên lửa Việt Nam với tên lửa Sơrai Mỹ
Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, không quân Mỹ đã sử dụng tất cả mọi loại vũ khí hiện đại và mới nhất mà họ có trong tay hòng đè bẹp lực lượng phòng không của chúng ta. Nhưng cuối cùng, không một loại vũ khí tối tân nào có thể thắng nổi lòng quả cảm vô song của những chiến sĩ Quân đội nhân dân VN luôn sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của đất nước…
"Sát thủ" nguy hiểm nhất
Sơrai (tiếng Anh: Shrike, ký hiệu AGM-45) là loại tên lửa tự dẫn chống radar (TLTDCR) thế hệ đầu của Mỹ trang bị cho Không quân và Hải quân từ năm 1964, được thiết kế chủ yếu để tiêu diệt các đài radar trinh sát và radar điều khiển hỏa lực phòng không (như radar ngắm bắn của pháo cao xạ và đài điều khiển tên lửa phòng không) của đối phương.
Tên lửa Sơrai dài 3,5m, trọng lượng 177 kg, đầu nổ kiểu mảnh-phá nặng 66 kg, bán kính sát thương 15m, tốc độ hơn 500 m/s, tầm phóng 30 km, đầu tự dẫn radar thụ động làm việc ở dải tần rộng 1.500-5.200 MHz, trùm lên chính tần số làm việc của tên lửa SAM-2 và các loại radar ngắm bắn pháo cao xạ 57mm và 100mm.
Tên lửa được trang bị rộng rãi cho các loại máy bay chiến đấu của cả không quân và hải quân Mỹ như A-4, A-6, F-4, F-105… và thường được phóng loạt để tăng khả năng đánh trúng mục tiêu cũng như làm cho bộ đội ta khó đối phó hơn.
Máy bay F-105 mang tên lửa chống radar Sơrai (AGM-45 Shrike).
Cần phải nói rõ rằng đây là loại vũ khí cực kỳ nguy hiểm và nguy hiểm nhất đối với các đài radar và tên lửa đang mở máy vì nó sẽ bay theo cánh sóng radar đến tận nguồn phát xạ với tốc độ rất nhanh (gấp 2 đến 3 lần tốc độ âm thanh), tín hiệu phản xạ lại rất nhỏ trên màn hiện sóng gây khó khăn lớn cho việc phát hiện và đối phó với chúng…
Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chủ yếu sử dụng TLTDCR loại Sơrai và các biến thể cải tiến, từ năm 1969 có sử dụng loại mới là Standard AGM-78 với tính năng trội hơn (tốc độ khoảng 700m/s với tầm phóng xa hơn nhưng cũng vẫn được bộ đội tên lửa Việt Nam gọi chung là Sơrai).
Các loại TLTDCR ra đời sau này có tốc độ lớn hơn nữa (gấp 4 lần tốc độ âm thanh), tầm phóng xa hơn (tới 80 km) và có thêm bộ nhớ để lưu lại tọa độ của đài rađa đã phát sóng rồi tiếp tục dẫn tên lửa tới mục tiêu dù sau đó đài có ngừng phát (tên lửa Sơrai không có tính năng này).
Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 hệ thống phòng không Irắc đã bị chính loại TLTDCR mới sau này (tên lửa HARM AGM-88) chế áp đến 90% chỉ sau tuần đầu tiên giao chiến…
Chiến thuật sử dụng tên lửa Sơrai chống radar của máy bay Mỹ.
Tối tân mấy vẫn thất bại
Tên lửa Sơrai được bắt đầu sử dụng từ tháng 8/1965 ở Việt Nam và đã đánh trúng 1 đài radar ngắm bắn của pháo cao xạ 57 mm loại SON-9A của ta tại Hàm Rồng, Thanh Hóa.
Loại tên lửa này có 12 biến thể khác nhau và trong thời kỳ chiến tranh phá hoại 1965-1973 ở miền Bắc VN không quân Mỹ đã sử dụng tới 5.000 quả, gây cho lực lượng phòng không của ta nhiều thiệt hại đáng kể.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần 1 ở miền Bắc (1965-1968) xác suất trúng đích của Sơrai chỉ dưới 21% do ta đã sớm nghiên cứu và tìm ra cách đối phó. Các cán bộ kỹ thuật quân sự Việt Nam đã nghiên cứu kỹ quả tên lửa Sơrai thu được và theo dõi mọi thủ đoạn phóng TLTDCR của địch trong các trận đánh.
Kết quả chúng ta đã tìm ra nhược điểm của Sơrai và có biện pháp đối phó hiệu quả với loại tên lửa nguy hiểm này.
Năm 1965 Mỹ sử dụng 2 kiểu A, B cho đến năm 1967 tỷ lệ bắn trúng của Sơrai đã bị giảm hẳn, có đợt đánh vào Hà Nội (tháng 5/1967) địch phóng 70 quả Sơrai khi hàng chục đài radar các loại của ta đang mở máy mà chỉ trúng 1 đài ( 1,4 %), số còn lại đều nổ vào khoảng giữa 2 đài, không gây được thiệt hại gì cho ta.
Máy bay Mỹ thường phóng Sơrai ở cự ly 20-30 km rồi bay ra tránh hỏa lực mặt đất, để tên lửa bám theo cánh sóng radar bay đến trận địa ta. Như vậy tên lửa sẽ dễ bị chệch hướng nếu ta dùng biện pháp phát sóng ngắt quãng hoặc ngừng phát…
Sau đó Mỹ liên tục cải tiến và kiểu D được sử dụng từ năm 1970 đã gây nhiều khó khăn cho ta: trong thời kỳ này địch đã đánh hỏng 6 đài radar cảnh giới, 2 đài radar pháo và 10 đài điều khiển tên lửa của ta.
Nhưng ta cũng đã có hàng loạt cải tiến kỹ thuật, thiết bị bổ sung và phương pháp xạ kích thích hợp cùng kinh nghiệm thực tế điêu luyện của các kíp chiến đấu tên lửa và radar đã góp phần đánh bại thủ đoạn dùng TLTDCR của Mỹ, gạt được phần lớn các tên lửa Sơrai ra khỏi trận địa ta.
Tên lửa Sơrai (AGM-45 Shrike).
Thậm chí, trong một số trận đánh, bộ đội tên lửa Việt Nam đã xuất sắc, bắn rơi cả máy bay phóng Sơrai của địch khi chúng chưa kịp bay ra khỏi vùng hỏa lực phòng không. Nếu phát hiện sớm, xác định được khoảng cách giữa Sơrai và đài điều khiển còn xa thì kíp chiến đấu vẫn có thể tiếp tục điều khiển tên lửa diệt mục tiêu xong và sau đó thao tác chống Sơrai.
Nếu phát hiện muộn, Sơrai đã vào quá gần thì phải thao tác chống Sơrai ngay để bảo đảm an toàn cho trận địa rồi sau đó tiếp tục chiến đấu với các tốp máy bay khác. Cuộc đối đầu này đòi hỏi các chiến sỹ tên lửa phải rất dũng cảm và bình tĩnh, hiệp đồng thao tác chuẩn xác để nhanh hơn kẻ thù chỉ vài chục giây.
Các trận địa tên lửa cũng được bố trí để có thể hỗ trợ lẫn nhau khi địch tập trung lực lượng sử dụng Sơrai đánh vào 1 trận địa…
Trận chiến đấu của tiểu đoàn tên lửa 81 ngày 06/06/1967 bắn rơi 2 chiếc F-105 là một ví dụ cụ thể : khi tên lửa ta phóng lên thì cũng là lúc máy bay Mỹ phóng Sơrai về hướng trận địa và các chiến sĩ Việt Nam đã dũng cảm đối đầu, điều khiển chính xác tên lửa ta bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay Mỹ phóng Sơrai, dù sau đó cũng bị thiệt hại do Sơrai gây ra.
Tên lửa S-75 (SAM-2) của Bộ đội tên lửa Việt Nam tiêu diệt 1 chiếc F-105 Mỹ.
Còn trong nhiều trường hợp khác, các chiến sĩ tên lửa đã mưu trí và linh hoạt sử dụng các biện pháp đối phó, vô hiệu hóa Sơrai để bảo toàn lực lượng ta rồi tiếp tục đánh trả máy bay địch.
Như với tiểu đoàn tên lửa 77, Trung đoàn 257 chỉ riêng trong chiến dịch 12 ngày đêm cuối năm 1972 đã bị các máy bay F-4 của Không quân Mỹ nhiều lần ném bom, bắn rốcket và 6 lần phóng hàng chục quả Sơrai vào trận địa nhưng kíp chiến đấu của tiểu đoàn đều xử trí đúng quy tắc mà chúng ta đúc kết được.
Đơn vị không chỉ gạt Sơrai nổ ngoài trận địa ta từ 300 đến 3.000m, đồng thời giữ an toàn cho người và vũ khí khí tài, mà còn đánh trả chính xác, bắn trúng mục tiêu chính là 8 chiếc B-52, trong đó có 4 chiếc rơi tại chỗ. Tiểu đoàn tên lửa 77 đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương Quân công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Dù đối phương có nhiều vũ khí tối tân, hiện đại vượt bậc nhưng các chiến sĩ QĐNDVN, trong đó có bộ đội tên lửa với trí thông minh, sáng tạo và lòng dũng cảm ngoan cường đã đánh bại mọi loại vũ khí và thủ đoạn nguy hiểm nhất, gây cho không lực Hoa Kỳ những tổn thất nặng nề "không thể tưởng tượng nổi".
Chính Lầu năm góc thừa nhận đã bị mất 8.728 máy bay các loại (có 5.134 trực thăng) cùng hàng nghìn phi công trong Chiến tranh Việt Nam so với 3.314 chiếc ở Triều Tiên mà phần lớn đều là các loại máy bay hiện đại hơn và đắt tiền hơn.
Kết quả này là minh chứng rõ ràng nhất cho lời nhận xét của các nhà quân sự thế giới: "Chiến tranh Việt Nam đã cho thấy sức mạnh vô song của ý chí con người đối với máy móc và vũ khí hiện đại".
Không quân Mỹ khiêu vũ với "tử thần" - Tên lửa S-75 (SAM-2) của Việt Nam.
Đại tá Nguyễn Thụy Anh - Cục Khoa học Quân sự / BTTM