Bệnh viêm não Nhật Bản và những điều cần biết
Hội chứng tim tan vỡ và những điều cần biết Cận thị và những phương pháp điều trị cận thị hiệu quả Bệnh quai bị và những điều cần biết |
Bệnh viêm não Nhật Bản và những điều cần biết |
Bệnh viêm não Nhật Bản có lây không?
Viêm não Nhật Bản là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây qua muỗi đốt. Nguồn gây bệnh chủ yếu từ các loài chim hoang dã và các loài gia súc. Chim và lợn là những ổ chứa nhiều virus viêm não Nhật Bản trong tự nhiên. Muỗi sẽ đốt lợn và chim hoang, mang máu chứa virus gây bệnh rồi truyền sang người.
Khác với loài muỗi vằn gây bệnh sốt xuất huyết thường sống ở khu vực quanh nhà, muỗi gây bệnh viêm não Nhật Bản thường chủ yếu là 2 loài: Culex Tritaeniorhynchus và Culex vishnui, có màu nâu, hoạt động mạnh vào lúc chập choạng tối và thường sống ở ruộng lúa nước, khu vực ao hồ, ngoài cánh đồng. Muỗi gây bệnh viêm não Nhật Bản có thể bay xa trong vòng bán kính lên đến 3km.
Muỗi đốt là con đường duy nhất truyền nhiễm bệnh viêm não Nhật Bản. Hiện chưa ghi nhận trường hợp viêm não Nhật Bản nào lây truyền từ người sang người. Việc ăn uống chung, dùng chung đồ dùng, tiếp xúc gần gũi với người bệnh không làm lây bệnh viêm não Nhật Bản. Với lợn nhiễm virus, chúng hoàn toàn không bị bệnh viêm não, lợn chỉ đóng vai trò là kho chứa và duy trì tải lượng virus trong thiên nhiên.
Bệnh viêm não Nhật Bản là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm?
Viêm não Nhật Bản là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm bởi vì người mắc bệnh bị virus tấn công và phải chịu những tổn thương ở hệ thần kinh trung ương, trường hợp nặng có thể đe dọa tính mạng, dẫn đến tử vong. Thông thường, nếu người bệnh viêm não Nhật Bản qua khỏi thì có thể gặp phải các di chứng thần kinh, tâm thần (chiếm 50%): Liệt vận động, chậm phát triển trí tuệ (bại não), mất ngôn ngữ, giảm trí nhớ nghiêm trọng, rối loạn tâm thần hoặc hôn mê, nghe kém hoặc điếc...
Điều đáng nói là bệnh viêm não Nhật Bản thường khó phát hiện sớm do các triệu chứng ban đầu thường giống với bệnh viêm não hoặc viêm màng não khác, chủ yếu khởi phát từ sốt cao. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh rất khó phân biệt giữa các chủng virus nên việc chẩn đoán cần chờ kết quả xét nghiệm xác định virus. Vài ba ngày sau đó, triệu chứng của bệnh mới rõ rệt hơn như: Sốt cao đột ngột, nhức đầu dữ dội, buồn nôn hoặc nôn, đau khớp, cứng gáy, loạng choạng, đờ đẫn, rối loạn ý thức, hôn mê, nói nhảm, liệt... Bệnh diễn biến rất nhanh, có thể dẫn đến co giật, hôn mê chỉ sau 3 ngày mắc bệnh.
Biểu hiện của bệnh
Giai đoạn ủ bệnh: Thường kéo dài 5-14 ngày, trung bình là 1 tuần.
Giai đoạn khởi phát: Bệnh khởi đầu với biểu hiện sốt và thường sốt rất cao 39-40 độ C. Bệnh thường xảy ra đột ngột, có trẻ đang khỏe mạnh bỗng dưng sốt cao, co giật, dẫn đến lờ đờ, hôn mê trong 1-3 ngày. Diễn biến bệnh nặng lên rất nhanh.
Trong thời kỳ này, bệnh còn có các biểu hiện kèm theo như rét run, đau đầu, mệt lả, buồn nôn.
Ngay trong 1 -2 ngày đầu của bệnh, bệnh nhi đã xuất hiện cứng gáy, tăng trương lực cơ, rối loạn sự vận động nhãn cầu, lú lẫn hoặc mất ý thức.
Ở một số trẻ nhỏ tuổi, ngoài sốt cao có thể thấy đi ngoài phân lỏng, đau bụng, nôn.
Giai đoạn toàn phát: Virus xâm nhập vào tế bào não tuỷ gây huỷ hoại các tế bào thần kinh. Lúc này các triệu chứng không giảm mà tăng dần.
Các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật cũng tăng lên như vã nhiều mồ hôi, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở và tăng tiết trong lòng khí quản, mạch thường nhanh và yếu.
Giai đoạn này diễn ra ngắn, bệnh nhân nhanh chóng rơi vào tình trạng hôn mê sâu với rối loạn các chức năng sống. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt hơn.
Giai đoạn lui bệnh: Từ tuần thứ 2, bệnh nhân đỡ dần, nhiệt độ giảm từ sốt cao xuống sốt nhẹ.
Vào khoảng ngày thứ 10 trở đi, nhiệt độ bệnh nhân trở về bình thường nếu không có bội nhiễm vi khuẩn khác. Bệnh nhân từ hôn mê dần dần tỉnh, không còn những cơn co cứng, bệnh nhân hết nôn và đau đầu.
Bệnh nhân có thể xuất hiện những biến chứng sớm như: Viêm phế quản, viêm phổi hoặc viêm phế quản - phổi do bội nhiễm hoặc viêm bể thận, bàng quang do thông tiểu hoặc đặt sonde dẫn lưu; loét và viêm tắc tĩnh mạch do nằm lâu và rối loạn dinh dưỡng.
Những di chứng sớm có thể gặp là bại hoặc liệt nửa người, mất ngôn ngữ, múa giật, múa vờn, rối loạn phối hợp vận động, giảm trí nhớ nghiêm trọng, rối loạn tâm thần, vận động.
Từ cuối tuần thứ 2 trở đi là thời kỳ của những biến chứng và di chứng muộn, hay gặp nhất là: loét nhiễm trùng, rối loạn giao cảm, rối loạn chuyển hoá hoặc động kinh, nghe kém/điếc, rối loạn tâm thần...
Phòng bệnh viêm não Nhật Bản
Phó Trưởng khoa Phòng chống bệnh truyền nhiễm - Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Hà Nội cho biết: để phòng chống viêm não Nhật Bản, biện pháp đặc hiệu tối ưu đó là tiêm chủng vắc xin viêm não Nhật Bản cho trẻ em với 3 liều cơ bản: Mũi thứ 1 tiêm lúc trẻ được 1 tuổi, mũi thứ 2 tiêm sau mũi thứ nhất từ 1 đến 2 tuần; mũi thứ 3 tiêm cách mũi thứ 2 khoảng 1 năm. Sau đó, cứ mỗi 3 năm nên tiêm nhắc lại 1 lần cho đến khi trẻ đủ 15 tuổi. Hiện nay còn có vắc xin phòng viêm não Nhật Bản thế hệ mới, có thể tiêm cho trẻ khi trẻ đủ 9 tháng tuổi trở lên, số lượng mũi cũng được tiêm giảm đi,chỉ cần tiêm 1 - 2 mũi.
Bên cạnh đó, mọi người cũng cần thực hiện các biện pháp khác để phòng, chống bệnh như: phòng chống muỗi đốt bằng cách ngủ màn kể cả ban ngày ở những nơi nhiều muỗi, sử dụng thuốc hoặc hóa chất để diệt muỗi, không cho trẻ em chơi ở nơi có chuồng gia súc; khu chăn nuôi, nên đặt chuồng trại ở xa nhà, phát quang bụi rậm xung quanh, khơi thông cống rãnh để hạn chế muỗi sinh sôi và phát triển. Đặc biệt, khi trẻ dấu hiệu sốt cao đột ngột cần đưa đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị sớm nếu có viêm não Nhật Bản xảy ra.
Phương pháp điều trị
Nguyên tắc buộc phải tuân thủ là tất cả các bệnh nhân viêm não Nhật Bản đều phải được điều trị tại bệnh viện. Phải đưa trẻ đến viện ngay lập tức nếu sốt cao quá 12 giờ liên tục hoặc có các dấu hiệu như nôn, cứng gáy, rối loạn ý thức...
Việc nhập viện muộn hay sớm sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc hạn chế tỉ lệ tử vong và tỉ lệ di chứng khi mắc viêm não virus.
Cho tới hiện nay, vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu dành cho căn bệnh Viêm não Nhật Bản. Chính vì vậy, việc điều trị viêm não Nhật Bản chủ yếu là:
Chống phù nề não.
Điều trị triệu chứng.
Chống bội nhiễm.
Điều trị chống phù não
Điều trị chống phù não cho bệnh nhân viêm não Nhật Bản như sau:
Truyền các loại dịch ưu trương để làm tăng áp lực thẩm thấu máu, nhằm rút nước ở các tổ chức, tế bào và trong khoang gian bào vào lòng mạch, qua đó chống phù nề não. Loại dịch được sử dụng ở đây là Manitol 20% với liều lượng từ 1 - 2 g/kg cân nặng, tốc độ truyền lớn, có thể cho chảy nhanh chóng.
Với những trường hợp đã bị phù não nặng, bệnh nhân có biểu hiện co giật thì sử dụng Corticoid để giúp làm bình thường hóa sự thẩm thấu của mạch máu, chống lại sự tích lũy nước và muối ở tổ chức não. Có thể lựa chọn sử dụng Dexamethason hoặc Solumedrol.
Điều trị triệu chứng
Bệnh nhân viêm não Nhật Bản cần được điều trị các triệu chứng sau:
An thần, cắt cơn co giật bằng
Seduxen qua sonde hoặc tiêm tĩnh mạch, tiêm bắp.
Có thể sử dụng dung dịch liệt hạch truyền tĩnh mạch nhỏ giọt đó là: Aminazin + Thiantan + Spartein với liều lượng của Aminazin là từ 3 - 7 mg/kg cân nặng trong vòng 24 giờ.
Trong trường hợp bệnh nhân co giật nhiều thì sử dụng Gardenal.
Hạ nhiệt độ
Do bệnh nhân bị viêm não Nhật Bản thường sốt cao liên tục, nên cần phải hạ nhiệt độ cho bệnh nhân bằng các cách sau:
Cởi bớt quần áo cho bệnh nhân.
Tiến hành chườm vào cổ, nách, bẹn,...
Quạt.
Xoa cồn long não.
Sử dụng các loại thuốc hạ sốt qua: Đường uống qua sonde dạ dày; Thụt giữ qua trực tràng; Truyền tĩnh mạch.
Thuốc hạ sốt có thể sử dụng như Efferalgan dung dịch 5ml/lần, 2 - 3 lần/24 giờ hoặc viên đạn Efferalgan 1 - 2 viên đạn/24 giờ.
Hồi sức hô hấp và tim mạch
Cho bệnh nhân thở oxy.
Hút đờm dãi.
Luôn sẵn sàng hô hấp viện trợ khi bệnh nhân bị rối loạn nhịp thở nặng hoặc ngừng thở.
Cần bổ sung nước và điện giải kịp thời theo xét nghiệm hematocrit và điện giải đồ.
Sử dụng các thuốc trợ tim mạch như Spartein, Ouabain.
Trong trường hợp cần thiết có thể sử dụng các thuốc vận mạch như Noradrenalin, Dopamin, Aramin.Đưa trẻ đến Bệnh viện khám ngay để được điều trị kịp thời
Ngăn ngừa bội nhiễm, dinh dưỡng và chống loét
Sử dụng kháng sinh phổ rộng như Cephalosporin thế hệ 3 hoặc Ampicillin theo trọng lượng cơ thể bệnh nhân. Thuốc kháng sinh không có tác dụng diệt virus viêm não Nhật Bản. Việc sử dụng kháng sinh trong trường hợp này là để nhằm phòng chống những loại vi khuẩn cơ hội tấn công gây bệnh khi cơ thể bệnh nhân đang suy yếu.
Thường xuyên lau rửa da, vệ sinh răng miệng cho bệnh nhân.
Đặt sonde tiểu.
Sử dụng đệm cao su bơm hơi hoặc đệm nước để vào các điểm tỳ đè (như vùng mông, gót chân,...) và thường xuyên thay đổi tư thế cho bệnh nhân để phòng tránh hiện tượng loét các điểm tỳ đè.
Đồng thời cần có chế độ dinh dưỡng phù hợp cho bệnh nhân, đảm bảo cung cấp đủ đạm và các vitamin để bệnh nhân có đủ sức khỏe vượt qua bệnh tật. Cho bệnh nhân ăn qua sonde dạ dày 4 lần/ngày.
Tin nên đọc:
Hội chứng tim tan vỡ và những điều cần biết Không chỉ là một ẩn dụ về mặt văn học - hình ảnh trái tim tan vỡ thực sự là một loại bệnh lý đã ... |
Bệnh quai bị và những điều cần biết Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính khá phổ biến ở trẻ em. Hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu để điều ... |
Phòng ngừa và điều trị bệnh sốt xuất huyết Bệnh sốt xuất huyết có thể dẫn đến tử vong trong những trường hợp bệnh nặng mà không được chẩn đoán và điều trị kịp thời ... |
Triệu chứng của bệnh viêm khớp Bệnh viêm khớp ảnh hưởng đến hơn một phần ba người trưởng thành trên 65 tuổi. Người trẻ bị tổn thương xương nghiêm trọng cũng ... |