Google tôn vinh nữ chủ bút Sương Nguyệt Anh
Hình ảnh nữ sĩ Sương Nguyệt Anh trên trang chủ Google (Ảnh chụp màn hình). |
Nói về nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, Google nhận xét: “Sương Nguyệt Anh được nhớ đến với nhân cách và trí tuệ sáng ngời, cũng như sự kiên cường vượt qua nghịch cảnh. Bà là người đi đầu cho những nữ tác giả, biên tập viên ở Việt Nam, và là người mở đường cho các thế hệ sau”.
Trang chủ Google sử dụng hình ảnh là bức tranh của Camelia Phạm - một nữ họa sĩ minh họa - sống và làm việc tại Hà Nội. Chia sẻ về bức tranh, nữ họa sĩ cho biết, chị rất vinh dự và tự hào khi tranh của chị được lựa chọn minh họa cho Google Doodle về đề tài liên quan đến Việt Nam.
Camelia Phạm cho biết, mình đã được truyền cảm hứng rất nhiều từ những vần thơ của nữ thi sĩ Sương Nguyệt Anh. Chị đã cố gắng tìm những hình ảnh biểu tượng từ một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của bà - hình ảnh hoa mai - để đưa vào bức tranh minh họa.
Bà Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Khuê sinh ngày 1/2/1864, tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là con gái thứ tư của nhà thơ, nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài bút danh Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút danh khác như Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh...
Sương Nguyệt Anh từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh. Vì gia đình đông người, cha lại bị mù nên bà vừa phải chăm lo việc gia đình, vừa giúp đỡ cha làm thuốc. Ban ngày, bà thường xem cha dạy học và chữa bệnh, ban đêm bà đọc sách, tập làm thơ. Người chị kế Nguyệt Anh là Nguyễn Thị Kim Xuyến cũng học giỏi, hay chữ và có tài làm thơ từ nhỏ. Hai chị em Nguyệt Anh thường được cha bày cho cách đọc sách và thơ phú. Ngoài ra bà còn là người có nhan sắc nên được nhiều bậc phong lưu trí thức mến mộ.
Năm 1888, khi Sương Nguyệt Anh 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang lòng oán hận, tìm cách hãm hại. Để tránh họa, bà cùng gia đình người anh là Nguyễn Đình Chúc chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một Phó Tổng sở tại góa vợ tên Nguyễn Công Tính và sinh được một con gái. Năm con gái được 2 tuổi thì chồng bà mất. Từ đó bà ở vậy nuôi con và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ "sương", thành "Sương Nguyệt Anh" với ý nghĩa là Nguyệt Anh goá chồng.
Lớn lên giữa cảnh đất nước đang rên xiết dưới gót quân thù, bên người cha – nhà thơ, chí sĩ tài năng, giàu khí tiết, suốt đời cùng ngọn bút không mệt mỏi đấu tranh vì nhân đạo, vì tự do và người mẹ hiền thục, tảo tần, bà sớm được thừa hưởng chí cha, đức mẹ, có bản lĩnh hơn người và luôn nuôi ước vọng tạo nên “một sự nghiệp”.
Những năm đầu thế kỷ XX, khi cụ Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du, bà nhiệt tình hưởng ứng, bán cả đất vườn lấy tiền gửi giúp du học sinh.
Năm 1917 bà được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ báo “Nữ giới chung” (nghĩa là Tiếng chuông của nữ giới) - tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam. "Nữ giới chung" có chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Tòa soạn báo đặt tại số nhà 155 đường Taberd, Sài Gòn (nay là đường Nguyễn Du, quận 1, TP Hồ Chí Minh).
Ngày 1/2/1918, tờ báo ra số đầu tiên. Báo phát hành định kỳ vào ngày thứ 6 hàng tuần với 18 trang nội dung và 8 trang quảng cáo. Báo có các chuyên mục là phần xã thuyết, văn nghệ, dạy gia chánh, học nghề cùng các trang cách ngôn, lời hay ý đẹp và mẹ con nói chuyện.
Tờ báo tập hợp được những cây bút có tư tưởng tiến bộ, lên tiếng đòi nam nữ bình quyền, thúc giục, vận động phụ nữ học hành, đấu tranh đòi được bình đẳng với nam giới...; lấy những gương sáng của phụ nữ các nước tiên tiến ở châu Âu, châu Mỹ để khuyến khích chị em.
Trong một bài bàn về nữ quyền, Sương Nguyệt Anh viết: "Chị em ơi!... Muốn có cái địa vị ngang hàng với nam giới thì (chẳng những) việc tề gia nội trợ phải thuộc lòng, tình thế trong ngoài cũng nên ghé mắt, tuy chưa được như người Âu Mỹ song cũng đừng phụ tiếng Lạc Hồng”.
Cũng trên tờ “Nữ giới chung” này, còn có những bài thơ đề cao tinh thần quật khởi của các nữ anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, hoặc đăng những bài thơ đề cao nữ quyền, trong đó có những câu nói rõ tiêu chí của tờ báo như: “Vang lừng nữ giới những hồi chuông/ Thúc bạn quần thoa thoát cửa buồng”... (Số 8 ra ngày 22/3/1918).
“Nữ giới chung” là tờ báo đầu tiên ở nước ta chú trọng đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe đối với nữ giới thời đó, đồng thời chủ trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng nam nữ. Suốt 20 số báo, Sương Nguyệt Anh dành trọn cả tài năng và tâm huyết của mình để góp phần làm chấn hưng tinh thần nữ giới nước nhà. Bà không những có vai trò to lớn trong việc làm thức tỉnh và cổ vũ các độc giả nữ trước thời thế mới mà còn làm đa dạng, phong phú, hoàn thiện thêm nền báo chí non trẻ của Việt Nam khi đó, đồng thời tạo tiền đề tốt cho hàng loạt báo chí về phụ nữ sau này xuất hiện như “Phụ nữ tân văn”, “Phụ nữ thời đàm”.