Hoạt động bang giao dưới triều Nguyễn qua tư liệu
Các tài liệu giới thiệu tại triển lãm chủ yếu được lựa chọn từ khối Châu bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới.
Với không gian 3D độc đáo, triển lãm giới thiệu với người xem một không gian lịch sử thông qua hai phần: Đóng cửa Tây và Mở cửa Đông.
Tranh mô tả Bá tước Đại tá hải quân Pháp đến Đà Nẵng xin đặt lãnh sự và thông thương vào năm 1825, vua Minh Mạng từ chối. (Nguồn: Tư liệu trong triển lãm) |
Ở phần 1 với chủ đề Đóng cửa Tây, thông qua Châu bản cho thấy các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức trong quan hệ với các nước đã thực hiện nhất quán chính sách "tự thủ", "khép kín". Mặc dù vậy, triều Nguyễn không hoàn toàn tuyệt giao với những gì liên quan đến phương Tây (chủ yếu là Anh, Pháp, Mỹ). Các vua triều Nguyễn vẫn gửi phái bộ đi xem xét tình hình, mua đồ thiết yếu, súng đạn của phương Tây, học hỏi về khoa học kỹ nghệ... Một số nhà Nho còn dâng điều trần đề nghị “giao hảo” với phương Tây như Nguyễn Trường Tộ với bản điều trần nhấn mạnh “nên nhanh chóng giao hảo tốt với người Anh”.
Trang đầu văn bản năm Gia Long 16 (1817) cho biết, tàu đem theo lễ vật của vua Ba Lãng Sa (Pháp) tặng vua nước Việt Nam để tỏ tình hữu hảo. (Nguồn: Tư liệu trong triển lãm) |
Với Pháp, thời Gia Long, việc buôn bán giữa hai nước diễn ra khá thuận lợi. Đến thời Minh Mạng, ban đầu nhà vua vẫn đối xử nhã nhặn với người Pháp nhưng sau đó, mọi cố gắng của người Pháp trong đề nghị thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách dâng vật phẩm và quốc thư đều bị vua Minh Mạng cự tuyệt.
Mặc dù vậy, ông không cấm tàu bè của thương nhân Pháp đến buôn bán. Thời Thiệu Trị, Tự Đức, chính sách “không phương Tây” vẫn được tiếp tục thực hiện.
Tranh vua Tự Đức tiếp Phái bộ Pháp - Tây Ban Nha do Phó đô đốc Bonard của Pháp và Đại tá Palanca của Tây Ban Nha dẫn đầu đến Huế (14/6/1863) trao đổi Hiệp ước 5/6/1862. (Nguồn: Tư liệu trong triển lãm) |
Năm 1832, Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson gửi vua Minh Mạng bức thư ngoại giao đầu tiên. Trong thư ghi: ''Thư này được chuyển đến Ngài bởi ông Edmund Roberts, một công dân đúng mực của Hoa Kỳ. Ông ấy được cử làm đặc phái viên của chính phủ chúng tôi để xin bàn bạc với Ngài những việc hệ trọng. Kính xin Ngài giúp đỡ ông ta trong khi thi hành nhiệm vụ được giao phó, đối xử với ông ta bằng lòng nhân hậu và tương kính và xin vững tin vào những gì mà ông ta thay mặt chúng tôi để trình bày, nhất là khi ông ta đảm bảo với Ngài về tình thân hữu trọn vẹn và tấm thịnh tình của chúng tôi đối với Ngài".
Theo Trung tâm lưu trữ quốc gia I, các tàu Hoa Kỳ đến Việt Nam chủ yếu để tìm kiếm thị trường và thiết lập quan hệ giao thương. Vua Minh Mạng cho phép họ thông thương, đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng nhưng không được xây nhà hay mở phố buôn bán.
Bức thư ngoại giao đầu tiênTổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson gửi vua Minh Mạng vào năm 1832. (Nguồn: Tư liệu trong triển lãm) |
Nhà vua dụ rằng, “triều đình ta với tinh thần mềm dẻo quý mến người phương xa, không tiếc gì mà không dung nạp họ (phái bộ Mỹ, năm 1832). Tuy nhiên, họ mới tới lần đầu, các chi tiết lễ nghi về ngoại giao thông hiểu chưa được am tường; có thể sai quan Thương bạc viết tư văn thông báo cho họ biết, nếu muốn thông thương mậu dịch với nước ta, ta cũng không cự tuyệt, nhưng phải tuân theo những hiến định đã có từ trước đến nay.
Từ nay, nếu có thương thuyền tới, thì cho phép được ghé vào cửa Đà Nẵng, Trà Sơn Úc, bỏ neo tại đó, chứ không được tự ý lên bộ. Đó là ý cảnh giác phòng gian nằm trong chính sách ngoại giao mềm dẻo của ta vậy”.
“Bọn họ (phái bộ Mỹ, năm 1836) đi xa 40.000 dặm biển do bởi tình cảm trân trọng đối với quyền uy và thế lực của triều đình ta. Nếu ta dứt khoát cắt đứt mọi quan hệ với họ, ta sẽ cho họ thấy là nước ta không bao giờ có thiện chí cả”.
“Không chống lại việc họ đến, không truy đuổi khi họ bỏ đi là ta đã theo những quy tắc cư xử lịch sự của một quốc gia văn minh”.
Họa đồ đi sứ Trung Quốc thời vua Minh Mạng. (Nguồn: Tư liệu trong triển lãm) |
Phần 2 của triển lãm có chủ đề Mở cửa Đông. Các tư liệu ở phần này cho thấy, trong khi thực hiện chính sách "không phương Tây", vua triều Nguyễn lại ưu tiên phát triển quan hệ với các nước phương Đông như Cao Miên (Campuchia), Vạn Tượng (Lào), Xiêm La (Thái Lan)… đặc biệt với nước láng giềng Trung Quốc.
Bản tâu năm Minh Mạng thứ tám (1827), Quốc vương Cao Miên bày tỏ lòng biết ơn khi được nước ta chẩn cấp cứu đói do mùa màng thất bát.
Theo Châu bản, vua triều Nguyễn thường thể hiện sự quan tâm đến các nước phiên bang bằng cách cử người đi thăm dò tình hình, cảm thông trước cảnh những nước này vượt đường sá xa xôi, vất vả để đến kinh đô nước Việt.
Châu bản năm Minh Mạng thứ 10 (1829) viết: ''Sang năm, vào dịp lễ mừng thọ nhà vua, cho quan bộ Lễ bàn chọn nhạc công các nước phiên bang phụ thuộc đến ca múa. Nay trẫm thấy các địa phương thuộc Cao Miên, Nam Chưởng đi lại vất vả, không thuận tiện. Truyền cho các trấn Nghệ An, Thanh Hoa chọn ở các phủ miền biên cương nơi nào có âm nhạc bản địa chọn người mang theo nhạc cụ, ngày lễ đến kinh cho đủ nhạc của bốn phương''.
Nói đến sự nghiệp ngoại giao của triều Nguyễn với các nước nói chung, Trung Quốc nói riêng, không thể không nói đến vai trò của các sứ thần với tư cách là những nhà ngoại giao trực tiếp thực hiện sứ mệnh cao cả mà triều đình và đất nước giao phó, “toàn quân mệnh, tráng quốc uy” (làm tròn mệnh vua, vẻ vang quốc thể).
Châu bản triều Nguyễn ghi chép cụ thể về việc tuyển chọn người đi sứ, mục đích của chuyến đi, thời gian đi và về, nơi sứ bộ đặt chân đến, hành trình, việc mua bán, trao đổi hàng hóa, kết quả chuyến đi và sự ghi nhận ban thưởng của triều đình đối với những đóng góp mà họ đã đem lại.
Đó là những gương mặt ngoại giao như Chánh sứ Trịnh Hoài Đức (1765-1825), chánh sứ Lê Quang Định (1759-1813), chánh sứ Nguyễn Du (1765-1820)…