Kỳ 3: Vững bước đi lên trong một thế giới biến động
Bộ Chính trị cho ý kiến phương án nhân sự Đại hội Đảng 11 tỉnh thành Bộ Chính trị tiếp tục làm việc theo nhóm với 11 Đảng bộ để cho ý kiến về chuẩn bị nhân sự, số lượng ban ... |
Ba nhiệm vụ trọng tâm Trả lời phỏng vấn tạp chí Thời Đại về góp ý cho Đại hội Đảng bộ cơ quan Liên hiệp các tổ chức hữu nghị ... |
Việt Nam là một trong số ít nước được coi là thành công nhất trong suốt hơn 3 thập kỷ qua với sức mạnh kinh tế và sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng liên tục và đạt mức chưa từng có; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế quốc tế của đất nước ngày càng cao. Và điều quan trọng nhất là đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện: thế hệ hiện nay có điều kiện sống tốt hơn hẳn thế hệ trước và thế hệ tiếp theo nhiều khả năng sẽ có điều kiện còn tốt hơn nữa. Đó không phải là điều đang diễn ra tại nhiều nước khác, kể cả các nước phát triển, trong cùng thời gian qua. Có được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đó trước hết là nhờ đường lối đổi mới, mở cửa đúng đắn của Đảng ta.
Những thành tựu về ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại trong những năm qua đã biến Việt Nam thành điểm thu hút đầu tư nước ngoài có sức hấp dẫn cao, thành đối tác có quan hệ hợp tác kinh tế hết sức rộng rãi, là bạn tốt của tất cả các nước và là thành viên có uy tín trong cộng đồng quốc tế. Đó là những nhân tố quan trọng đang mở ra thời cơ chiến lược mới cho đât nước ta trong thời gian tới.
Ảnh minh hoạ. |
Thách thức lớn nhất về an ninh từ môi trường bên ngoài hiện nay đối với chúng ta gồm vấn đề Biển Đông, “diễn biến hoà bình” và sự chống phá của các thế lực thù địch. Thách thức lớn nhất về phát triển là nguy cơ tụt hậu và lệ thuộc về kinh tế, khoa học công nghệ, thông tin, văn hoá. Những biến động nhanh chóng, phức tạp làm gia tăng tính bất định, bất ổn của tình hình khu vực và thế giới cũng đang đặt ra những thách thức mới đối với môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác phát triển cùng với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta đã phát huy hiệu quả tích cực trong những năm qua và cần được tiếp tục triển khai một cách kiên định trong thời gian tới. Tuy nhiên phương thức triển khai thực hiện cần có những điều chỉnh, cập nhật phù hợp với tình hình mới để tận dụng có hiệu quả thời cơ chiến lược và hoá giải thành công các thách thức đang nổi lên.
Trong xử lý các vấn đề đối ngoại, cần kiên định mục tiêu nguyên tắc là bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia – dân tộc, theo đó lợi ích quốc gia – dân tộc cần được nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn, bao gồm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; chế độ chính trị, sự ổn định chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; lợi ích kinh tế, đời sống nhân dân, văn hoá và môi trường sinh thái; vị thế và uy tín quốc tế của đất nước.
Trong bối cảnh đối đầu, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chúng ta cần kiên trì phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “là bạn với tất cả các nước”, kiên quyết không “nhất biên đảo”, tiếp tục kiên định nguyên tắc “4 không”.
Tuy nhiên, trong khi không “chọn bên” thì phương châm hành động của chúng ta nên là “chọn việc” trên tinh thần sẵn sàng tham gia các hoạt động hợp tác, phối hợp với các nước khác đáp ứng được cả 3 tiêu chí cơ bản gồm phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế và có lợi cho hoà bình, ổn định, phát triển thịnh vượng chung. Và đó cũng nên là phương châm hành động chung của Việt Nam trong xử lý các vấn đề đối ngoại trong giai đoạn tới.
Quan hệ song phương của nước ta đã được mở rộng, đa dạng hoá đáng kể trong thời gian qua, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, trong đó, có 30 nước là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Trọng tâm ưu tiên trong thời gian tới nên chăng là tập trung đi vào chiều sâu, chú trọng làm rõ và tăng cường nội hàm hợp tác thực chất với từng đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước đối tác chiến lược, toàn diện.
Trong quan hệ quan hệ đối tác, cần tiếp tục thực hiện triệt để và có hiệu quả hơn phương châm “cầu đồng, tồn dị” để phát huy tối đa mặt tương đồng, hoá giải, hạn chế mặt khác biệt. Trong bối cảnh các nước đều đề cao lợi ích quốc gia, những khác biệt, thậm chí là xung khắc về lợi ích là không thể tránh khỏi trong quan hệ với một số đối tác, nhất thiết đòi hỏi phải đấu tranh.
Tuy nhiên, đấu tranh trước hết phải bằng các phương thức hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, dựa trên chính nghĩa, có lý, có tình, giữ gìn được cục diện hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Đồng thời, trong khi kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành động của nước ngoài xâm hại lợi ích – quốc gia dân tộc, chúng ta không nhằm chống nước đó và không có thái độ thù địch đối với nhân dân nước đó.
Đa phương hoá quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế trong thời kỳ thế giới đang bị phân cực, phân mảnh là rất khác so với thời kỳ cả thế giới cùng trong một tiến trình toàn cầu hoá tương đối thống nhất. Mặt khác những biến động đang diễn ra cho thấy có những mô hình và phương thức phát triển, liên kết hiện hữu đang bộc lộ không ít bất cập, suy yếu, không còn phù hợp.
Đồng thời, cũng có những hình thức liên kết, tập hợp lực lượng mới đang và sẽ được thúc đẩy nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến lược riêng của các cường quốc đang cạnh tranh, đối đầu nhau. Vì vậy, trong khi đa phương hoá và hội nhập quốc tế nhìn chung cần được tiếp tục thúc đẩy thì việc lựa chọn tham gia cơ chế đa phương nào, hoạt động phối hợp nào cần được tiến hành hết sức cẩn trọng, tỉnh táo trên cơ sở nhất thiết phải đáp ứng được 3 tiêu chí cơ bản nêu trên.
Đồng thời, trong bối cảnh đó, yêu cầu về “độc lập, tự chủ” càng cần được nhấn mạnh hơn nữa, trong đó độc lập về chính trị, tự chủ về an ninh và tự chủ trên một số lĩnh vực kinh tế trọng yếu là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước tiếp tục đi lên trong một thế giới đang biến động phức tạp hiện nay. Vì vậy, khái niệm “hội nhập toàn diện” mới được bổ sung tại dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nên được cân nhắc lại hoặc làm rõ hơn cho phù hợp, tránh để hiểu là “cái gì cũng hội nhập” thì sẽ dẫn đến những hệ luỵ không mong muốn.
Trong thế giới đang biến động phức tạp hiện nay, các nước vừa và nhỏ không nên chỉ dừng ở mức ứng phó với chính sách và hành xử của các nước lớn mà nên chủ động tham gia đóng góp vào quá trình kiến tạo hoà bình và trật tự chung dựa trên luật pháp quốc tế. Trên tinh thần đó, Việt Nam cần phát huy tinh thần “chủ động, linh hoạt, sáng tạo” trong công tác đối ngoại, tiếp tục đề cao chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế, phát huy vai trò tích cực hơn nữa trong ASEAN và các cơ chế đa phương khác có ảnh hưởng quan trọng đối với lợi ích của Việt Nam, chủ động đề ra các sáng kiến nhằm góp phần củng cố, duy trì hoà bình và thúc đẩy hợp tác cùng có lợi vì thịnh vượng chung.
Xử lý vấn đề Biển Đông là vấn đề quan trọng nhất, nhạy cảm nhất và khó khăn nhất đối với nước ta hiện nay, đòi hỏi phải vừa bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, vừa duy trì được môi trường hoà bình, ổn định và cục diện quan hệ đối ngoại thuận lợi để phát triển đất nước. Biển Đông ngày nay cũng đang trở thành tâm điểm hội tụ cả các tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc và các nước ven biển, cả đối đầu, cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung và cuộc đấu tranh chung của cộng đồng khu vực, quốc tế vì hoà bình, ổn định, an toàn và tự do hàng hải, hàng không, tuân thủ luật pháp quốc tế vì vậy, đã trở thành điểm nóng nhất và là thùng thuốc súng nguy hiểm nhất của khu vực.
Do đó, hoá giải vấn đề Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế là ưu tiên hàng đầu và là chìa khoá quan trọng nhất để giải toả leo thang căng thẳng, đối đầu và nguy cơ xung đột tại khu vực, tạo điều kiện để tiến tới xây dựng một khu vực Đông Á hoà bình, hợp tác và phát triển. Hoá giải vấn đề Biển Đông không có nghĩa là giải quyết được ngay các tranh chấp lịch sử vốn hết sức phức tạp, khó khăn mà là xây dựng và thực thi được các thoả thuận, quy tắc về ứng xử nhằm giảm thiểu căng thẳng và nguy cơ xung đột, đối đầu, ổn định tình hình, bảo đảm duy trì hoà bình, tự do và an toàn hàng hải, hàng không trên biển và tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia ven biển phát triển kinh tế biển phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.
Một trong những sáng kiến mà chúng ta nên sớm xem xét là chủ động trao đổi với các nước ASEAN để thúc đẩy việc hình thành cơ chế an ninh tập thể Đông Á dựa trên các cấu trúc an ninh khu vực hiện có do ASEAN làm trung tâm như ARF, ADMM+ và nhất là EAS.
Một Hiệp ước về Hoà bình và Hợp tác Đông Á hay về Hoà bình và Hợp tác trên Biển Đông cần và có thể được thúc đẩy thông qua các cơ chế này nhằm quy định các nguyên tắc xử lý tranh chấp, hoạt động quân sự, ngăn ngừa xung đột, bảo đảm và duy trì hoà bình, ổn định, tự do và an toàn hàng hải, hàng không, quản lý và khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái phù hợp với luật pháp quốc tế tại khu vực này.
Việc ký kết và thực thi một Hiệp ước như vậy sẽ góp phần đáng kể xây dựng lòng tin, hạn chế chạy đua vũ trang, giảm thiểu căng thẳng và nguy cơ xung đột, có lợi cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực.
Là thành viên nòng cốt trong ASEAN, Việt Nam cần tiếp tục chủ động đóng góp sáng kiến để phát huy hơn nữa trách nhiệm của tổ chức này đối với những vấn đề an ninh và phát triển của khu vực. Hiện nay trong khu vực đã tồn tại Uỷ hội sông Mê Công có nhiệm vụ điều phối hợp tác giữa các nước trên vấn đề sông Mê Công.
Tuy nhiên, đối với vấn đề đặc biệt hệ trọng đối với an ninh và phát triển của khu vực là Biển Đông thì ASEAN chưa có được cơ chế phối hợp hành động tương thích. Vì vậy, cần sớm xem xét thúc đẩy hình thành các nhóm công tác (task force) của ASEAN về vấn đề Biển Đông với sự tham gia tự nguyện từ các quốc gia thành viên có liên quan và quan tâm để thường xuyên theo dõi, đánh giá và báo cáo tình hình, đưa ra các khuyến nghị giúp ASEAN có các hành động kịp thời và phù hợp nhằm duy trì hoà bình, ổn định, tự do hàng hải, hàng không và luật pháp quốc tế tại vùng biển quan trọng này.
Kiên trì, kiên định về mục tiêu và con đường đã chọn, đồng thời hết sức tỉnh táo và chủ động, linh hoạt, sáng tạo về giải pháp trong từng vấn đề và tình huống cụ thể chính là nội hàm của “dĩ bất biến ứng vạn biến” để đưa đất nước ta tiếp tục vững bước đi lên trong thế giới đầy biến động ngày nay.
Cộng đồng Việt Nam tại Lào góp ý Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII Ngày 11/11, Hội nghị công bố và lấy ý kiến đóng góp của kiều bào và cộng đồng người Việt Nam ở Lào vào Dự ... |
Sáu điểm mới nổi bật của Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIII của Đảng Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã được công bố, gửi xin ý kiến ... |