Chuẩn hóa đội ngũ những người làm công tác xã hội
Mục tiêu của đề xuất này nhằm chuyên nghiệp hóa hoạt động công tác xã hội, bảo đảm can thiệp kịp thời và hỗ trợ hiệu quả đối với cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng, người dân gặp hoàn cảnh khó khăn hoặc có nhu cầu. Đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả và phát triển dịch vụ công tác xã hội, đáp ứng nhu cầu của người dân về chất lượng dịch vụ.
Nguồn nhân lực làm công tác xã hội còn nhiều bất cập
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có quy định trực tiếp về người làm công tác xã hội thông qua các quy định chung về tổ chức cán bộ. Công tác xã hội đang được cán bộ ở nhiều ngành tham gia, tuy nhiên, những cán bộ đó trên thực tế là cán bộ thuộc biên chế của những tổ chức, cơ quan, đơn vị cụ thể, do vậy trước hết họ phải thực hiện chức trách của người thuộc tổ chức, cơ quan, đơn vị đó; công tác xã hội chưa phải là công việc chính thường xuyên của họ.
Nhu cầu rất lớn về nhân viên CTXH. |
Đến nay, các tỉnh, thành phố thành lập mạng lưới cộng tác viên công tác xã hội, khoảng 235 nghìn người làm công tác xã hội, trong đó có trên 35 nghìn công chức, viên chức và người lao động làm việc tại các cơ sở xã hội công lập và ngoài công lập, gần 100 nghìn người làm việc tại các hội, đoàn thể các cấp (phụ nữ, thanh niên, hội chữ thập đỏ, hội người cao tuổi, mặt trận tổ quốc, hội nông dân, liên đoàn lao động, cựu chiến binh); trên 100 nghìn cộng tác viên giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em và phát triển cộng đồng…tạo thành một mạng lưới cán bộ, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội trợ giúp các nhóm đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo và các đối tượng xã hội khác tiếp cận, thụ hưởng các chính sách phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, học nghề, tìm việc làm để ổn định cuộc sống.
Đối với nguồn nhân lực làm công tác xã hội hiện còn có một số bất cập thực tiễn như thiếu về số lượng nhân viên làm nghề công tác xã hội, yếu về năng lực nên chất lượng chuyên môn không đảm bảo, hoạt động còn thiếu chuyên nghiệp. Đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội còn mỏng và chưa chuyên nghiệp do đa số được đào tạo từ ngành, nghề khác, đội ngũ cộng tác viên công tác xã hội tại cộng đồng mới bước đầu được hình thành tại một số địa phương.
Năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội mặc dù đã qua đào tạo nhưng mới chỉ nắm kiến thức lý thuyết mà kỹ năng còn chưa đáp ứng, thiếu kiến thức thực hành. Việc chuẩn hóa đội ngũ làm công tác xã hội càng trở nên bất cập trong điều kiện chương trình, giáo trình giảng dạy về công tác xã hội còn thiếu, chất lượng, phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên công tác xã hội còn hạn chế trong khi hệ thống cơ sở dạy nghề công tác xã hội còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo.
Những bất cập nêu trên dẫn đến các bất cập khác là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của những người có quyền được hưởng các dịch vụ công tác xã hội. Vì vậy, số lượng người dân, đặc biệt là những người dân có hoàn cảnh đặc biệt như người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nhiễm HIV/AIDS… và các nhóm đối tượng bảo trợ xã hội có nhu cầu trợ giúp xã hội được tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ công tác xã hội còn ít.
Mở rộng đối tượng hành nghề công tác xã hội
Trước thực trạng trên, tại dự thảo Nghị định, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất mở rộng đối tượng hành nghề công tác xã hội không chỉ là viên chức đồng thời bổ sung quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội và chế độ, chính sách đối với người hành nghề công tác xã hội.
Quy định cụ thể trong Nghị định về công tác xã hội các tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề (phải qua đào tạo, tập sự hành nghề công tác xã hội; có chứng chỉ hành nghề công tác xã hội); quy định việc sử dụng, thu hồi chứng chỉ hành nghề công tác xã hội; quy định quy trình hoạt động, nâng cao năng lực, đào tạo, bồi dưỡng đối với người hành nghề công tác xã hội chuyên nghiệp và những người làm công tác xã hội.
Người làm nghề CTXH cần được cấp chứng chỉ hành nghề. |
Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, người làm công tác xã hội gồm: Công chức nhà nước làm công tác quản lý nhà nước về công tác xã hội; viên chức nhà nước làm công tác xã hội tại các đơn vị sự nghiệp công lập; người làm công tác xã hội tại các đơn vị, cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong các lĩnh vực phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, tư pháp, trại giam, trường giáo dưỡng và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật; người làm công tác xã hội trong các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội, doanh nghiệp và đoàn thể khác; người làm công tác xã hội độc lập.
Người hành nghề công tác xã hội là người làm công tác xã hội, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề công tác xã hội theo quy định (trừ trường hợp người hành nghề công tác xã hội là viên chức công tác xã hội).
8 nhiệm vụ trong công tác đại đoàn kết đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài Ông Ngô Trịnh Hà, Phó Chủ nhiệm, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao chia sẻ về triển khai công tác đại đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong 20 năm qua. |
Công tác xã hội góp phần quan trọng trong ứng phó dịch bệnh Covid-19 Công tác xã hội đã góp phần giảm thiểu những tác động của cuộc khủng hoảng Covid-19, giúp người dân tiếp cận các dịch vụ sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội cần thiết trong quá trình ứng phó và phục hồi sau đại dịch. |