70 năm tập kết ra Bắc: nghĩa đồng bào đong đầy trên đất Bắc
Nghĩa đồng bào trong gian khó
Thanh Hóa là một trong những địa phương đón đồng bào miền Nam tập kết sớm nhất. Theo thông tin tại Hội thảo “Thanh Hóa với đồng bào, cán bộ, chiến sỹ và học sinh miền Nam tập kết ra Bắc - 70 năm sâu nặng nghĩa tình" vào đầu tháng 10/2024, chuyến tàu đầu tiên chở đồng bào miền Nam đã rẽ sóng cập bến cửa Lạch Hới - Sầm Sơn vào ngày 25/9/1954 giữa tiếng reo hò của hàng ngàn người dân Thanh Hóa. Trong vòng 9 tháng, từ tháng 9/1954 đến tháng 5/1955, Thanh Hóa đón tổng cộng 7 đợt tàu với 45 chuyến, bao gồm 47.346 cán bộ, bộ đội, 1.775 thương binh, 5.922 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ.
Nhân dân miền Bắc đón tiếp cán bộ, bộ đội và nhân dân miền Nam tập kết ra Bắc tại bến Sầm Sơn (Thanh Hóa), theo quy định tại Hiệp định Geneva (25/9/1954). (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Khắp các huyện xứ Thanh, phong trào quyên góp ủng hộ đồng bào miền Nam diễn ra mạnh mẽ. Hàng ngàn bộ quần áo, chăn màn, thực phẩm được chuẩn bị. Để xây dựng nơi ở tạm, các huyện miền núi ngày đêm vận chuyển hàng vạn cây luồng, gỗ về Thanh Hóa, giúp người dân miền Nam sớm ổn định cuộc sống.
Ông Diệp Văn Sơn, Phó Trưởng ban kiêm Tổng Thư ký Ban liên lạc học sinh miền Nam Thành phố Hồ Chí Minh kể lại kỷ niệm về những ngày đầu đặt chân đến Thanh Hóa khi ông mới 9 tuổi. Đã 70 năm trôi qua, nhưng ông vẫn nhớ như in khoảnh khắc được người dân Thanh Hóa đón tiếp nồng hậu.
Ông kể: "Tháng 11/1954, cậu bé 9 tuổi là tôi, lần đầu tiên xa nhà đặt chân đến Sầm Sơn, Thanh Hóa, sau bao ngày lênh đênh trên tàu của nước bạn Liên Xô cũ, rồi tàu gặp bão, phải núp ở đảo Hòn Mê. Sau đấy được thuyền đánh cá của ngư dân đưa vào đất liền.
Cảm nhận đầu tiên là cái rét rất xa lạ với những người miền Nam... Rồi cái lạnh, nỗi nhớ nhà của những đứa con lần đầu tiên xa nhà, xa quê cũng nguôi ngoai dần trước những tình cảm của người dân miền Bắc. Nhân dân Sầm Sơn (Thanh Hóa) đã đón tiếp như đón người thân, những đứa con đi xa trở về".
Đêm đầu tiên, ông và những đứa trẻ miền Nam được phát áo bông, chăn bông, những món đồ xa lạ với trẻ em miền Nam.
"Chúng tôi nhớ mãi bữa cơm đầu tiên với món thịt kho su hào - bữa ăn ngon nhất sau gần 10 ngày lênh đênh trên biển vì phải trú bão.
(...) Buổi sáng chúng tôi ra một cái giếng duy nhất để súc miệng. Lúc này mới biết thế nào là lạnh. Cảm giác muốn rụng răng, sợ đến mức không dám rửa mặt.
Mấy ngày này liên tục được các đoàn đại biểu phụ lão, phụ nữ, thanh niên đến thăm, thật ấm lòng vì sự quan tâm chăm sóc”, ông Sơn kể lại.
Ông Diệp Văn Sơn, Phó Trưởng ban Kiêm Tổng Thư ký Ban Liên lạc học sinh miền Nam thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: TTXVN) |
Ông Sơn cùng bốn học sinh khác được phân ở tại một gia đình có ba người con. Đứa lớn 10 tuổi, đứa bé nhất gần 2 tuổi. Ông Sơn cho biết: Buổi sáng, anh chị chủ nhà ra đồng sớm, chúng tôi quan sát hình như gia đình không ăn cơm chiều. Chị về với một rổ khoai chưa kịp lớn và ít rau. Tối cả nhà quây quần bên nồi khoai luộc, để lại mấy củ cho bọn tôi sáng hôm sau.
Trưa, chiều, chúng tôi lên bếp dã chiến đem cơm về ăn, nhìn mấy đứa nhỏ chắc lâu ngày chưa được ăn cơm thấy mà thương! Bọn tôi bàn nhau mỗi ngày để ra ba chén cho mấy bé. Nhìn chúng ăn ngấu nghiến, càng thương. Được mấy ngày, anh chồng nói với chúng tôi “các em xa cha mẹ ra đây được Bác Hồ, Đảng nuôi dạy không thể để sứt mẻ tiêu chuẩn, dù chỉ một chén cơm”.
Ông Diệp Văn Sơn ở Thanh Hóa ba tháng, sau đó được chia lớp rồi chuyển về Hưng Yên. “70 năm qua, tôi mang những kỷ niệm về những ngày đầu trên đất Bắc, trên đất Thanh Hóa, nơi thay mặt các địa phương đón tiếp những con em miền Nam tập kết, trên cuộc hành trình của một kiếp người nhiều gian khó nhưng lắm tự hào.
Nhắc lại trước tiên để tri ân Bác Hồ, Đảng, Chính phủ, nhân dân miền Bắc và thầy cô, những người thay mặt cha mẹ có công nuôi dạy chúng tôi nên người. Biết ơn đồng bào miền Bắc đã nhường cơm, sẻ áo cho chúng tôi ở một thời gian khổ nhưng hào hùng”, ông Sơn nói.
Chén cháo nghĩa tình
Trong những trang hồi ức viết tay do ông Phan Văn Tạng, quê ở ấp Kiến Vàng, xã Tân Hưng Tây, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau, để lại có nhiều đoạn kể về những ân tình trên đất Bắc và được báo Cà Mau dẫn lại.
“... Ngày thứ năm đến bến Sầm Sơn, tàu lớn, bãi cạn không cập bến được nên phải đậu cách khoảng 1 km. Tuy xa nhưng chúng tôi vẫn thấy rõ trên bờ không khí náo nhiệt, trống rung cờ mở, tiếng hô khẩu hiệu âm vang, lan toả trên mặt sóng biển. Những chiếc thuyền của ngư dân vun vút lao ra đón chúng tôi. Các đồng chí thuỷ thủ tàu Ba Lan thả thang dây cho chúng tôi xuống thuyền (...) Ðảng uỷ và đồng bào đón chúng tôi hết sức nồng nhiệt. Ðồng chí Trưởng thôn dẫn chúng tôi đến từng nhà bàn giao. Bà con vui vẻ tiếp nhận.
Tối hôm ấy, một điều xảy ra hết sức bất ngờ là mãi đến 9-10 giờ đêm mà không thấy bà con ăn cơm. Hỏi ra mới biết, Thanh Hoá năm ấy vỡ đê, mất mùa, dân chúng không có thóc gạo mà phải dùng lá rau khoai lang trộn với trấu giã mịn hấp lên ăn. Thậm chí có người còn ra đường ray xe lửa đào rau má làm bữa, nên có câu: “Dân Thanh Hoá, ăn rau má, phá đường tàu”. Thế mà bộ đội chúng tôi được ăn 27 kg gạo mỗi tháng, bằng 900 gram/ngày. Bữa ăn nào cũng có thịt cá, trong khi đó bọn trẻ từ sáng đến chiều tối không có một hột cơm trong bụng. Nhưng mỗi khi dọn cơm ra sân đình thì không bao giờ thấy bóng bọn trẻ con đến nhìn ngó. Chúng tôi khâm phục sự lãnh đạo của Ðảng bộ và xúc động trước những nghĩa cử của Nhân dân. Nhiều đồng chí cảm động đến rơi nước mắt. Biến tình cảm thành hành động, chúng tôi gom số cơm sau bữa ăn còn, đem về cho đồng bào. Ðược vài lần, chính quyền địa phương phát hiện, phản ánh với đơn vị, chúng tôi bị kiểm thảo. Có khuyết điểm thật nhưng chúng tôi không hề ân hận”.
Một tiết mục trong chương trình nghệ thuật kỷ niệm 70 năm đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sỹ và học sinh miền Nam tập kết ra Bắc tổ chức tại Thanh Hóa, ngày 27/10/2024. (Ảnh: Báo Thanh Hóa) |
Một kỷ niệm khác cũng được ông Tạng nhắc lại: “Vào khoảng tháng 3, trời còn rét, tôi bị sưng phổi. Ðể đảm bảo quân số, quân y đưa tôi gửi nhà chị Tùng ở thôn Ðời Sơn. Chị Tùng có hai con, con trai lớn tên Tùng, cháu gái tên Tình. Chồng chị Tùng qua đời vì nạn đói năm 1945. Nằm được một tuần lễ, ngày nào trước khi ra đồng chị cũng đến hỏi thăm tôi. Một chuyện đầy cảm động nữa là, nhà chị chỉ còn một đấu thóc, chị đem giã lấy gạo trắng nấu cháo cho tôi, còn lại tấm mẳn, cám và trấu đem giọt thật mịn, trộn với lá khoai hấp lên để mẹ con chị ăn.
Con gà mái đẻ được 3 trứng, hết thóc nó không đẻ nữa, 3 trứng gà ấy cũng lần lượt nấu cháo cho tôi. Ban đầu tôi nghĩ thầm, hay là chị Tùng yêu tôi. Nhưng không phải, mà đó là tình dân hết lòng thương yêu bộ đội, nhằm bồi dưỡng cho tôi mau hết bệnh trở về đơn vị, cùng anh em xây dựng lực lượng hùng mạnh giải phóng miền Nam. Nghĩa cử đó làm tôi nhớ mãi”.
Sự kiện tập kết ra Bắc không chỉ là một dấu mốc lịch sử mà còn là biểu tượng sống động của tình đoàn kết giữa hai miền. Những ký ức về tấm lòng sẻ chia của người dân Thanh Hóa là minh chứng cho sức mạnh của tình người, cùng nhau vượt qua gian khó vì một tương lai hòa bình, thống nhất.