Thắng lợi của tình đoàn kết Việt Nam - Campuchia
Việt Nam giúp Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng và hồi sinh đất nước
Trưa 7/1/1979, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng Thủ đô Phnom Penh, lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, hồi sinh và mang lại tương lai tươi sáng cho đất nước Chùa Tháp. Ảnh: TTXVN |
Trong chiều dài lịch sử, nhất là trong những năm tháng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam và Campuchia luôn đoàn kết bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi chống kẻ thù chung, giành độc lập, tự do cho mỗi nước.
Tuy nhiên, sau khi lên nắm quyền lãnh đạo đất nước vào tháng 4/1975, được các thế lực bên ngoài giúp sức, tập đoàn Pol Pot đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới nước ta, đồng thời, thực hiện chính sách diệt chủng tàn bạo đối với nhân dân Campuchia. Chỉ trong 3 năm 8 tháng và 20 ngày (từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1978), chế độ diệt chủng Pol Pot đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn bán và đẩy Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong. Chế độ hà khắc ban hành đã trùm lên đất nước Campuchia đau thương: “Không tự do đi lại, không tự do hội họp, không tự do ngôn luận, không tự do tín ngưỡng, không tự do học hành, không tự do hôn nhân, không bệnh viện, không tiêu tiền, không buôn bán, không chùa chiền... và không có cả nước mắt để khóc trước cảnh đau thương của dân tộc. Chỉ còn căm thù và uất hận” (Diễn văn của ông Rua Xamay, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia tại cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nội chào mừng thắng lợi của cách mạng Campuchia ngày 11/1/1979).
Đối với Việt Nam, tập đoàn Pol Pot xuyên tạc lịch sử, kích động thù hằn dân tộc, cho quân gây rối, xâm lấn lãnh thổ nước ta trên vùng biển biên giới Tây Nam. Không dừng lại ở đó, chúng còn đưa quân đánh chiếm đảo Thổ Chu và một số đảo khác ở khu vực Tây Nam của Việt Nam. Đến ngày 23/12/1978, tập đoàn Pol Pot đã tập trung nhiều sư đoàn mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta; đi đến đâu chúng cũng tàn phá làng mạc, cướp bóc, giết hại dã man người dân, kể cả người già, phụ nữ, trẻ em...
Trước hành động gây hấn và mở rộng chiến tranh của kẻ địch, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiềm chế và kiên trì thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị. Nhưng càng kiềm chế, thì tập đoàn Pol Pot càng lấn tới, buộc chúng ta phải chọn con đường đứng lên thực hiện quyền tự vệ chính đáng. Đáp lại lời kêu cứu của nhân dân Campuchia và lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Việt Nam không chỉ đánh tan bọn xâm lược, mà còn đưa quân, giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot vào ngày 7/1/1979, cứu nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, hồi sinh đất nước, dân tộc.
Hành động của Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, trách nhiệm quốc tế, cũng như lương tâm của một dân tộc từng chịu nhiều áp bức và ngoại xâm. Trong cuộc chiến đấu gian khổ và ác liệt đó, biết bao cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh, hoặc để lại một phần máu, thịt của mình trên các chiến trường. Sự giúp đỡ bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Campuchia là sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, vô tư, trong sáng.
Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin đã từng nói: “Sự giúp đỡ bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam là sự giúp đỡ nhân đạo và đúng đắn nhất. Sự hỗ trợ này lẽ ra phải là nghĩa vụ chính yếu của cộng đồng quốc tế trong việc cứu giúp một dân tộc đang trong hoạn nạn bởi chính sách diệt chủng có tổ chức chính quy từ trên xuống dưới của chế độ Pol Pot”.
Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen cũng từng khẳng định: “Quân dân Campuchia nếu không có sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam thì không thể giải phóng nhanh đến thế”.
Người dân Campuchia mang nước thốt nốt đến cho bộ đội tình nguyện Việt Nam trong những ngày giúp dân Campuchia thu hoạch lúa - hình ảnh thắm đượm tình nghĩa quân dân Việt Nam - Campuchia trong cuộc chiến đấu lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot. Ảnh: TTXVN |
Ngày 8/1/1979, Hội đồng Nhân dân cách mạng Campuchia thành lập và đề nghị quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục phối hợp với lực lượng vũ trang Campuchia truy quét tàn quân Pol Pot, củng cố chính quyền cách mạng. Cùng với hoạt động quân sự, Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia giúp Campuchia xây dựng chính quyền cơ sở, hỗ trợ vật chất giúp phục hồi kinh tế từ đống đổ nát do chế độ diệt chủng để lại.
Và thật vinh dự khi người dân Campuchia đã trìu mến gọi những chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam là “Bộ đội nhà Phật”. Ngày Quân tình nguyện Việt Nam về nước, báo Pro-chia-chuôn (Nhân dân) của Campuchia ngày 29/6/1989, ra xã luận viết: “Trong những năm cực kỳ bi thảm dưới chế độ diệt chủng Pol Pot trên thế giới này có không biết bao nhiêu kẻ mạnh, kẻ giàu, nhưng duy nhất chỉ có người bạn láng giềng nghèo Việt Nam đến cứu sống dân tộc ta mà thôi”.
Nhiều công trình ghi nhớ công ơn của quân tình nguyện, cựu chuyên gia Việt Nam cùng quân dân Campuchia chiến đấu, hy sinh đã được Chính phủ hai nước xây dựng cả ở Việt Nam và Campuchia, là những biểu tượng cao đẹp của quan hệ hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa hai dân tộc.
Sau nhiều năm xét xử với hàng trăm nghìn tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày 16/11/2018, Phiên tòa Bất thường trong hệ thống Tòa án của Campuchia dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc đã chính thức ra phán quyết các cựu thủ lĩnh của Tập đoàn diệt chủng Pol Pot phạm tội ác diệt chủng chống lại nhân loại. Dù thời gian hơn 40 năm đã trôi qua, phán quyết này đã trả lại công lý cho những nạn nhân vô tội bị tàn sát bởi bè lũ diệt chủng Pol Pot và một lần nữa khẳng định tính chính nghĩa sáng ngời và sự giúp đỡ vô tư, trong sáng của Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam-Campuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả
Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hội đồng Cách mạng Nhân dân Campuchia Heng Samrin ký Tuyên bố chung Việt Nam - Campuchia, trong chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Heng Samrin tới Việt Nam, ngày 22/8/1979. Ảnh: TTXVN |
Thắng lợi vĩ đại ngày 7/1/1979 đã trở thành mốc son lịch sử của tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, hữu nghị giữa hai dân tộc; là sự tiếp nối truyền thống đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Ngày nay, mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Campuchia tiếp tục được tiếp thêm sức mạnh từ những truyền thống vốn có từ lâu đời trong lịch sử. Quan hệ Việt Nam - Campuchia đã và đang được củng cố và phát triển vững chắc theo phương châm "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài".
Những năm qua, quan hệ Việt Nam-Campuchia phát triển tốt đẹp trên nhiều mặt. Về chính trị, Lãnh đạo hai bên thường xuyên điện đàm, hội đàm trực tuyến. Hai bên phối hợp tổ chức thành công các cơ chế hợp tác song phương quan trọng. Nổi bật là việc Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia, Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen đã sang Việt Nam dự cuộc gặp với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Thongloun Sisoulith (Hà Nội, ngày 26/9/2021) và có các cuộc gặp với Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ. Gần đây nhất, chuyến thăm Campuchia của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (ngày 21 và 22/12/2021) tiếp tục phản ánh rõ quan hệ gần gũi Campuchia - Việt Nam, đồng thời là sự thể hiện đối với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về tình hữu nghị giữa hai nước.
Sáng 21/12/2021, tại Thủ đô Phnom Penh, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gặp Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Samdech Techo Hun Sen. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN |
Cùng với đó, hợp tác quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố. Hai nước đã hoàn thành phân giới cắm mốc khoảng 84% đường biên giới trên thực địa và đã ký 2 văn kiện pháp lý ngày 5/10/2019 ghi nhận thành quả phân giới cắm mốc đã đạt được. Ngày 22/12/2020, hai nước đã phối hợp tổ chức Lễ trao đổi Văn kiện Phê chuẩn theo hình thức trực tuyến để hai văn kiện pháp lý về biên giới chính thức có hiệu lực.
Hợp tác kinh tế-thương mại, đầu tư giữa hai nước có nhiều khởi sắc. Mặc dù chịu khó khăn do đại dịch COVID-19, thương mại giữa hai nước vẫn tăng trưởng mạnh. 10 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt 7,87 tỷ USD, tăng 87,5% so với cùng kỳ 2020. Việt Nam có 188 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Campuchia với tổng số vốn đăng ký 2,88 tỷ USD, đứng thứ 5 trong số các nước đầu tư vào Campuchia.
Về hợp tác phòng, chống COVID-19, phát huy tinh thần “tương thân tương ái” chia sẻ những khó khăn trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 tại mỗi nước, trong năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ khẩn cấp cho Chính phủ và nhân dân Campuchia cả tiền và vật tư y tế, trong đó có thiết bị và bộ xét nghiệm PCR tổng trị giá khoảng 300 nghìn USD. Riêng trong năm 2021, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục hỗ trợ khẩn cấp cho Campuchia 500.000 USD tiền mặt và nhiều vật tư, thiết bị y tế như 800 máy thở, 2 triệu khẩu trang y tế, 300 nghìn khẩu trang N95 trị giá khoảng 10 triệu USD, góp phần thiết thực và hiệu quả vào nỗ lực ứng phó dịch COVID-19 của Chính phủ và nhân dân Campuchia. Ngoài ra, các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương có nhiều hình thức hỗ trợ trực tiếp đối tác phía Campuchia, thể hiện truyền thống sẵn sàng chia sẻ, tương trợ bạn lúc khó khăn, đóng góp ý nghĩa vào việc tăng cường tình hữu nghị giữa hai nước.
Đại tá Phạm Văn Phong, Chính ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang (thứ 4 phải qua) trao biểu trưng tặng tiền mặt, vật tư y tế phòng, chống dịch COVID-19 cho lực lượng Tiểu khu Quân sự tỉnh Takeo, Vương quốc Campuchia. Ảnh: Công Mạo/TTXVN |
Đáp lại, Chính phủ, Hội Chữ thập đỏ Campuchia, Hội Hữu nghị Campuchia-Việt Nam và nhân dân Campuchia đã tặng Việt Nam 200.000 liều vaccine Sinopharm, 1 triệu khẩu trang y tế, 100.000 khẩu trang N95, 100 máy tạo oxy và 350.000 USD tiền mặt.
Trên lĩnh vực đối ngoại, hai bên tích cực tăng cường phối hợp trong các hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh và ngoại giao tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Thường xuyên thực hiện tham vấn chính trị, chia sẻ thông tin kịp thời và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới…
Nhìn lại chặng đường 43 năm qua, chúng ta tự hào và vui mừng nhận thấy “quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia luôn được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đang tiếp tục không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.