Chuyên gia Nga đề cao chính sách của Việt Nam: Luôn nỗ lực tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định
Đại sứ Đặng Đình Quý gõ búa khai mạc phiên thảo luận mở Hội đồng Bảo an năm 2020. (Ảnh: Khắc Hiếu/TTXVN) |
Tiến sĩ Bredikhin nhấn mạnh Việt Nam ủng hộ việc tăng cường đối thoại toàn cầu trong giải quyết các xung đột quốc tế, đặc biệt trong thời gian đảm đương cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.
Chủ trương của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông thông qua biện pháp hòa bình trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế nhất là Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982. Đối với các vấn đề liên quan đến hai nước Việt Nam – Trung Quốc thì giải quyết song phương, vấn đề nào liên quan đến các nước khác, liên quan đến tự do hàng hải thì cần có sự bàn bạc của các bên liên quan. Nếu các bên không giải quyết được bằng cơ chế đàm phán thì cần phải giải quyết bằng các phương thức nhau như trung gian hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa án Công lý Quốc Tế, Tòa án Quốc tế về Luật Biển và các Tòa Trọng tài.
Tiến sỹ Lịch sử Anton Viktorovich Bredikhin, thành viên Hội đồng khoa học Trung tâm Khoa học xã hội "Các vấn đề chính trị-xã hội hình thành EAEU," Viện Hàn lâm khoa học Nga, đã đánh gia như vậy trong bài viết “Biển Đông - Thực trạng và cách tiếp cận của Nga” đăng tải ngày 11/5 trên chuyên trang phân tích chính trị của Hội đồng Đối ngoại Nga về các vấn đề quốc tế (RIAC).
Tiến sỹ Bredikhin nhấn mạnh Việt Nam ủng hộ việc tăng cường đối thoại toàn cầu trong giải quyết các xung đột quốc tế, đặc biệt trong thời gian đảm đương cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.
Trong bài viết, đánh giá về thành tựu của Việt Nam trong những năm gần đây, chuyên gia Nga bày tỏ ấn tượng về đà tăng trưởng ổn định của nền kinh tế Việt Nam. Ông Bredikhin dẫn các chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2018 là hơn 245 tỷ USD, năm 2019 là gần 263 tỷ USD và năm 2020 là trên 271 tỷ USD, đồng thời cho biết năm 2021, tăng trưởng GDP đạt 2,58%. Theo ông, những con số này minh chứng cho sự ổn định và triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Bất chấp đại dịch Covid-19, nề kinh tế Việt Nam vẫn phục hồi, tăng trưởng trong năm 2020 đạt 2,9% - mức cao hàng đầu thế giới – và được cho là lên tới 6,5% năm 2021.
Trong năm 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9%, thuộc diện cao nhất trên thế giới, nhờ sự phục hồi sớm của các hoạt động trong nước cùng với năng lực xuất khẩu tốt, đặc biệt là xuất khẩu các mặt hàng điện tử công nghệ cao khi người dân trên toàn cầu làm việc tại nhà.
Chuyên gia Nga nêu rõ Việt Nam đang theo đuổi chính sách hợp tác kinh tế đa phương, ký các thỏa thuận thương mại tự do với nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU). Trong số các quốc gia thành viên EAEU, Nga có kim ngạch thương mại lớn nhất.
Việt Nam bước vào đại dịch với các nền tảng kinh tế và vùng đệm chính sách vững chắc, mặc dù vẫn còn một số thách thức về cơ cấu cần phải giải quyết. Đầu tư nước ngoài mạnh và thặng dư tài khoản vãng lai đã tăng cường năng lực phục hồi của kinh tế. Dù vẫn còn một số điểm yếu, sức khỏe của hệ thống ngân hàng được cải thiện, với khả năng sinh lời, thanh khoản cao hơn, và ít nợ xấu hơn so với trước kia.
Từ những tiềm năng nêu trên, chuyên gia Bredikhin khẳng định Nga nên thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế-thương mại với Việt Nam.
Việt Nam cũng đạt được tiến bộ đáng kể trong việc củng cố tài chính công trước Covid-19. Việc xây dựng các vùng đệm về tài khóa và tài chính trước đại dịch đã giúp Việt Nam đương đầu tốt hơn với cú sốc.
Theo Tiến sỹ Bredikhin, Việt Nam hiện là đối tác kinh tế thương mại triển vọng nhất, có nền tảng chiến lược cần thiết để mở rộng nhiều lĩnh vực hợp tác.
Sự phục hồi bền vững còn phụ thuộc vào việc bảo vệ sự ổn định tài chính. Các doanh nghiệp ở Việt Nam tiến vào cuộc khủng hoảng với bảng cân đối kế toán tương đối yếu, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn chiếm ưu thế trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nhất. Covid-19 khiến cho hả năng thanh khoản và khả năng thanh toán của họ càng bị suy yếu.
Các chính sách tiền tệ, tài khóa và tài chính do chính phủ thực hiện đã góp phần giảm thiểu nguy cơ phá sản và sa thải hàng loạt. tiếp tục giám sát chặt chẽ, kết hợp với những nỗ lực kịp thời giải quyết các khoản vay có vấn đề, đồng thời tăng cường các khuôn khổ quản lý và giám sát sẽ giúp giải quyết các rủi ro hệ thống tài chính.
Việt Nam nên ưu tiên cải thiện môi trường kinh doanh và đảm bảo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải cách hướng tới giảm bớt gánh nặng pháp lý mà các doanh nghiệp phải đối mặt, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn lực của họ, đổi mới, tăng cường quản trị và tiếp cận công nghệ. Những cải cách trong lĩnh vực này sẽ giúp Việt Nam gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa từ việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu trong một thế giới hậu đại dịch.
Đề cập tới tình hình Biển Đông, ông Bredikhin cho rằng với vị trí địa chính trị chiến lược, tuyến hàng hải quan trọng và trữ lượng khí đốt tự nhiên khổng lồ, Biển Đông có thể trở thành “điểm nóng” tiềm tàng. Việc quân sự hóa khu vực khiến lượng lưu thông tàu thuyền suy giảm, tác động tiêu cực đến kinh tế và vận tải ở Biển Đông.
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp được giải thích cụ thể trong Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia năm 1970 (Tuyên bố năm 1970) của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Tuyên bố này được tòa án quốc tế và các học giả có uy tín xem là văn bản có giá trị giải thích Hiến chương Liên hợp quốc. Tiếp theo đó, Đại hội đồng đã thông qua một số nghị quyết khác về nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, bao gồm Tuyên bố Manila về Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế năm 1982 (Tuyên bố Manila) và Nghị quyết về Ngăn ngừa và hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế năm 2003.
Chuyên gia Nga nhận định cần tích cực thúc đẩy quá trình đàm phán về việc thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Đối với các tranh chấp ở khu vực Biển Đông, các văn bản pháp lý quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), có tầm quan trọng đặc biệt.