Từ 2018, giảm thuế nhập khẩu linh kiện ô tô về 0%
Theo Nghị định, đối tượng áp dụng chương trình ưu đãi thuế là doanh nghiệp đảm bảo tiêu chuẩn doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô theo quy định của Chính phủ về điều kiện sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ôtô.
Sẽ có 30 loại linh kiện, bộ và cụm linh kiện ô tô dung tích dưới 2.000 cc, mã số hải quan từ 98.49.10 đến mã 98.49.40 sẽ được bỏ thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện.
Thuế suất thuế nhập khẩu 0% chỉ áp dụng đối với linh kiện xe du lịch 9 chỗ ngồi trở xuống có dung tích xi lanh dưới 2.000cc trở xuống, còn đối với xe chở người từ 9 chỗ trở xuống loại dung tích xi lanh từ 2.500cc xuống 2.000cc áp thuế theo nhóm 87.03, nhóm thuế theo quy định của WTO và MFN (tối đa 70%, tối thiểu 14%).
Ảnh minh họa
Về điều kiện áp dụng chương trình ưu đãi thuế, Chính phủ nêu rõ: Doanh nghiệp phải cam kết sản xuất, lắp ráp xe ô tô đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mức 4 (giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021) và mức 5 (từ năm 2022 trở đi) và đạt đủ sản lượng quy định theo các tiêu chí về sản lượng và mẫu xe.
Ngoài ra, linh kiện ô tô do doanh nghiệp quy định trước đó phải trực tiếp nhập khẩu để sản xuất, lắp ráp ô tô hoặc linh kiện ô tô do tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp quy định ủy thác, ủy quyền nhập khẩu và đáp ứng đủ các điều kiện cam kết.
Căn cứ kết quả kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng mức thuế suất 0% của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện để được áp dụng chương trình ưu đãi thuế và doanh nghiệp có số tiền thuế đã nộp đối với số linh kiện ôtô đã nhập khẩu lớn hơn số tiền thuế phải nộp theo mức thuế suất của nhóm 98.49 thì cơ quan Hải quan thực hiện xử lý tiền thuế nộp thừa cho doanh nghiệp theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng đẫn thi hành.
Theo lộ trình mà Bộ Tài chính đặt ra thì sản lượng chung tối thiểu đối với ô tô chở người dưới 9 chỗ, loại có động cơ từ 2.000 cc trở xuống mà các doanh nghiệp đạt được năm 2018 phải là 34.000 xe và tăng 16% theo từng năm cho đến 2022 là 61.000 xe và tổng giai đoạn 5 năm phải đạt 234.000 chiếc được lắp ráp trong nước.
Trong đó, sản lượng riêng tối thiểu 1 mẫu xe phải đạt 20.000 xe và tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước là 20% (năm 2018) và con số này tăng lên tương ứng 36.000 xe vá 40% vào năm 2022.
Các loại linh kiện cũng phải thuộc loại trong nước chưa sản xuất được và các linh kiện (các chi tiết, cụm chi tiết, bộ phận) là những sản phẩm đã hoàn thiện nhưng chưa được lắp ráp hoặc chưa phải là sản phẩm hoàn thiện nhưng đã có đặc trưng cơ bản của sản phẩm hoàn thiện với mức độ rời rạc tối thiểu bằng mức độ rời rạc của các linh kiện ôtô nhập khẩu theo quy định của Bộ Khoa học Công nghệ.
Với chính sách trên, trong thời gian tới, các loại xe dung tích nhỏ sẽ được ưu tiên về giá nhập linh kiện, giá có thể rẻ đi, trong khi đó các loại xe có dung tích lớn sẽ không được giảm giá nhập linh kiện, điều này đồng nghĩa phân khúc ô tô mà Chính phủ đang muốn ưu tiên là phân khúc xe xi lanh cỡ nhỏ, nhưng tuân thủ quy định về tiêu chuẩn khí thải Euro 4 và 5, điều này phù hợp với trình độ phát triển của thị trường xe hơi Việt Nam cũng như tạo điều kiện nội địa hóa linh kiện.
Minh Anh