Hiệp định Paris trong ký ức của người phiên dịch
Những ngày giữa tháng 1/2023, trong không khí kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973-27/1/2023), trong căn phòng khách rộng hơn 20m2 trên tầng 5 tại khu tập thể Thành Công, Hà Nội, ông Phạm Ngạc chỉ lên tường, nơi treo đầy những bức ảnh đen trắng, kể về gia đình, quá trình tự học ngoại ngữ và bén duyên với ngành ngoại giao của mình.
Ông Phạm Ngạc biết bốn ngôn ngữ: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp và tiếng Nga. Ông công tác tại Bộ Ngoại giao từ tháng 11/1954, sau khi học lớp tiếng Anh cấp tốc, tháng 10/1956 ông được cử sang Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh làm công tác báo chí và phiên dịch tiếng Anh hai nhiệm kỳ liên tiếp đến năm 1962.
Năm 1968, ông Phạm Ngạc được cử đi phục vụ Hội nghị Paris về Việt Nam. Khi ấy, ông 33 tuổi, là một trong những cán bộ trẻ nhất phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ông Phạm Ngạc, người phiên dịch, ghi biên bản các cuộc họp kín và công khai tại Hội nghị Paris (Ảnh: Xuân Trung). |
Ông kể, lúc mới nhận nhiệm vụ, ông cứ nghĩ việc đàm phán chỉ diễn ra một vài tháng, không ngờ kéo dài tới gần 5 năm. Ông được tham dự hầu hết các hoạt động trong quá trình đàm phán Paris: từ Hội nghị chính thức bốn bên ở Trung tâm Hội nghị quốc tế Paris đến các cuộc gặp kín Hoa Kỳ - Việt Nam, lễ ký kết Hiệp định, lễ ký Định ước Quốc tế và sau đó là đàm phán Hòa Kỳ - Việt Nam về hàn gắn vết thương chiến tranh (tháng 5, 6/1973). Ông vừa là phiên dịch, vừa là cán bộ liên lạc, vừa ghi chép biên bản cả bằng tay và máy ghi âm trong các cuộc họp kín và công khai. Các biên bản ấy cũng được ông Lê Đức Thọ mang về nước để báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo.
Kể về kinh nghiệm phiên dịch trong một hội nghị đặc biệt quan trọng như Hội nghị Paris, với những cuộc đàm phán cam go, ông Phạm Ngạc cho biết, ngôn ngữ ngoại giao cần sự cẩn trọng, người phiên dịch không chỉ giỏi ngoại ngữ mà còn phải hiểu biết, có kiến thức tổng hợp, nếu chưa được đào tạo thì phải tự học.
Câu chuyện chiếc bàn tại Hội nghị bốn bên
Lật từng trang cuốn sách ảnh "Hội nghị Paris về Việt Nam: Nhìn lại, 1968 - 1973" mà ông cùng một số thành viên khác trong đoàn đàm phán Hiệp định Paris và nhà văn Lady Borton ra mắt cách đây 10 năm, ông Phạm Ngạc cho biết, căng thẳng đã nảy sinh ngay từ việc chọn địa điểm đàm phán.
Sau khi cân nhắc nhiều địa điểm, cuối cùng Việt Nam và Mỹ chọn Paris là nơi tiến hành đàm phán. Đối với Việt Nam, Paris xa xôi và tốn kém nhưng bù lại là địa bàn thuận lợi để tranh thủ dư luận quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. Nhưng tại đây, Đảng Cộng sản Pháp và cộng đồng người Việt đông đảo ở Paris sẵn sàng hỗ trợ Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (từ tháng 6/1969 là đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) khắc phục khó khăn về hậu cần.
Ngày 18/1/1969, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp) diễn ra phiên họp đầu tiên của Hội nghị 4 bên về Việt Nam, gồm 4 đoàn đại biểu: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn (Ảnh: Văn Lượng/TTXVN). |
“Paris lúc ấy là trung tâm của châu Âu về báo chí. Các đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với báo chí quốc tế nhiều hơn so với từ Hà Nội hay thông qua Đài phát thanh Giải phóng ở miền Nam. Trong khi đàm phán song phương tiếp tục, đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Paris tiến hành gặp gỡ bạn bè Pháp và quốc tế; trả lời phỏng vấn các phóng viên báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình; tham dự các hội nghị quốc tế, qua đó tăng cường tình đoàn kết với đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”, ông Phạm Ngạc kể.
Chỉ vào hình ảnh chiếc bàn tròn tại Hội nghị bốn bên, ông Phạm Ngạc cho biết, để quyết định hình dáng chiếc bàn, các bên đã trao đổi, bàn luận hết sức căng thẳng. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muốn bàn hình vuông hoặc tròn chia đều cho bốn đoàn. Hoa Kỳ muốn bàn tròn chia hai hoặc hình chữ nhật cho hai bên. Cuối cùng quyết định là một chiếc bàn tròn chia hai với bốn đoàn có thành viên ngồi tách biệt thành bốn nhóm. Với cách bố trí như vậy, người ta có thể giải thích là hai hoặc bốn bên theo ý mình.
"Đoàn Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngồi gắn liền vào nhau như là một bên. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngồi tách rời thành hai, do đoàn Việt Nam Cộng hòa ngồi sát với Hoa Kỳ như là tay sai của Hoa Kỳ nên không thể đại diện cho nhân dân miền Nam Việt Nam”, ông nói.