Dự báo lợi nhuận ngân hàng quý II: “Người lên cao vút, kẻ xuống mất hút!”
SSI Research vừa có báo cáo ước tính kết quả kinh doanh quý II/2024 của 13 ngân hàng đang niêm yết trên sàn chứng khoán. Trong đó, các chuyên gia dự báo 11 ngân hàng sẽ có lợi nhuận tăng trưởng trong khi 2 thành viên có khả năng ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng âm trong 6 tháng đầu năm.
Trong nhóm các nhà băng được kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận, VPBank được đánh giá sẽ ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng mạnh mẽ nhất, tới 60% so với cùng kỳ, đạt khoảng 4.200 tỷ đồng trong 3 tháng quý II. Theo SSI Research, FE Credit có thể sẽ đạt điểm hòa vốn trong quý này sau nhiều quý thua lỗ.
Trong khi đó, với ngân hàng Techcombank, các chuyên gia kỳ vọng tín dụng sẽ duy trì đà tăng tốt trong quý II, đạt 10 - 11% so với đầu năm. Trước đó vào quý I/2024, tăng trưởng tín dụng của Techcombank ở mức 7%.
Song song, NIM và tỷ lệ nợ xấu được kỳ vọng sẽ tương đối ổn định so với quý trước.
Về lợi nhuận, mặc dù thu nhập ngoài lãi được dự báo sẽ duy trì ổn định nhờ hoạt động bảo lãnh và phát hành trái phiếu, nhưng khoản lợi nhuận bất thường từ kinh doanh trái phiếu Chính phủ có thể sẽ không lớn như trong quý I.
Do vậy, lợi nhuận trước thuế của Techcombank được kỳ vọng sẽ đạt 7.000 tỷ đồng, tăng 31% so với cùng kỳ nhưng giảm 5% nếu so với quý liền trước. Xét cả năm, lợi nhuận ròng của ngân hàng có thể tăng trưởng 25%.
Với HDBank, các chuyên viên phân tích cho rằng lợi nhuận trước thuế của ngân hàng có thể đạt 3.500 đến 3.600 tỷ đồng, tương đương tăng từ 28% đến 31% so với cùng kỳ nhờ tăng trưởng tín dụng tới 10%. Dù vậy, các chuyên viên cũng dự báo NIM của ngân hàng có thể giảm trong quý II nếu so với quý liền trước. Cho cả năm 2024, lợi nhuận ròng của HDBank được dự báo sẽ tăng trưởng 23%.
Trong ki đó, ngân hàng MB đã công bố kết quả kinh doanh sơ bộ nửa đầu năm 2024 với tăng trưởng tín dụng đạt 5,5%, trong khi tăng trưởng huy động chỉ là 2% so với đầu năm. Ngân hàng cũng đã giải quyết xong trường hợp nhóm nợ do liên đới từ CIC trong quý I/2024, giúp cả NIM và tỷ lệ nợ xấu được cải thiện trong quý này.
Theo đó, SSI Research dự báo lợi nhuận trước thuế của MB dự kiến đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 21,8% so với cùng cùng. Cả năm, lợi nhuận ròng có thể tăng trưởng 11%.
Với VietinBank, việc duy trì quỹ đạo tăng trưởng tín dụng ổn định trong nửa đầu năm 2024, dự kiến đạt khoảng 5 đến 6% so với đầu năm, giúp NIM duy trì tương đối ổn định.
Các chuyên viên phân tích cho rằng, ngân hàng có thể tiếp tục xử lý nợ xấu mạnh mẽ trong quý II, nhờ đó, lợi nhuận trước thuế có thể tăng 15%, đạt 7.500 tỷ đồng. Lợi nhuận ròng cả năm có thể tăng 17%.
Trong khi đó, một “ông lớn” ngân hàng có vốn nhà nước khác là BIDV được dự báo lợi nhuận trước thuế đạt 7.800 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ. Lợi nhuận ròng cả năm ước tăng 15%.
“Do tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 6% so với đầu năm nay (hay 15% so với cùng kỳ), trong khi tăng trưởng tiền gửi chậm hơn, chỉ tăng thêm 4 - 5% so với đầu năm, chúng tôi kỳ vọng NIM của BIDV sẽ phục hồi khá tốt so với quý trước. Tuy nhiên, chất lượng tài sản của ngân hàng vẫn có thể chịu áp lực do liên đới từ CIC”, SSI Research nhận định.
Tại TPBank, mặc dù tăng trưởng tín dụng chậm hơn so với quý II/2023 và NIM dự kiến sẽ giảm nhẹ nhưng ngân hàng được kỳ vọng sẽ báo lãi 1.800 đến 1.900 tỷ đồng, tăng 11,2% đến 17,4% nhờ chi phí hoạt động thấp hơn. Dự báo lợi nhuận cả năm của TPBank tăng 26%.
Với Vietcombank, tăng trưởng tín dụng được dự báo sẽ đạt 4% vào cuối tháng 6, trong khi đó tăng trưởng huy động giảm. NIM dự kiến sẽ ổn định trong quý II/2024 trong khi chất lượng tài sản được kiểm soát ổn định.Theo đó, lợi nhuận trước thuế quý II của Vietcombank được kỳ vọng đạt 10.000 đến 10.300 tỷ đồng, tăng 8 đến 10% so với cùng kỳ. Xét cả năm, lợi nhuận Vietcombank được dự báo tăng 16%, cao hơn đáng kể so với năm trước.
Với MSB, chuyên gia SSI Research cho rằng thu từ nợ xấu đã xóa sẽ là nguồn thu nhập quan trong của ngân hàng trong quý II/2024 với tổng số tiền dự kiến ít nhất là 800 tỷ đồng.
Mặc dù tăng trưởng tín dụng có thể đạt 10% so với đầu năm vào cuối quý II, nhưng NIM lại được kỳ vọng sẽ giảm nhẹ so với quý I/2024. Lợi nhuận trước thuế của MSB được dự báo có thể đạt từ 2.100 tỷ đồng đến 2.200 tỷ đồng, tươnng đương tăng 3,9% đến 8,8% so với cùng kỳ. Lợi nhuận ròng cả năm dự báo tăng 12%.
Tại ACB, lợi nhuận trước thuế quý II được dự báo có thể đạt 5.000 - 5.200 tỷ đồng, tăng 3,5% đến 7,6% so với cùng kỳ nhờ tăng trưởng tín dụng ổn định, đạt ít nhất 9% so với đầu năm. Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích cũng dự báo NIM của ACB có thể giảm nhẹ so với quý trước do ngân hàng hạ lãi suất nhằm kích cầu tín dụng, trong khi tỷ lệ nợ xấu có thể nhích nhẹ.
Với Sacombank, các chuyên gia nhận định NIM có thể đi ngang so với quý trước trong bối cảnh tín dụng phục hồi. Tuy nhiên, gánh nặng chi phí dự phòng có thể tăng lên trong quý II. Theo đó, lợi nhuận quý II/2024 của ngân hàng kỳ vọng đạt 2.500 tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ. Llợi nhuận ròng cả năm của Sacombank có thể tăng 11%.
Ở chiều ngược lại, có hai thành viên được dự báo lợi nhuận suy giảm trong quý II/2024. Cụ thể, OCB được dự báo sẽ duy trì tỷ lệ NIM và nợ xấu ở mức ổn định, trong khi tăng trưởng tín dụng đạt 7 - 8%. Mặc dù vậy, chi phí dự phòng được kỳ vọng sẽ tăng lên đáng kể trong quý khiến lợi nhuận trước thuế giảm từ 14,4% đến 5%, xuống 1.350 tỷ đồng đến 1.500 tỷ đồng. Dù vậy, lợi nhuận ròng cả năm vẫn kỳ vọng sẽ tăng 21%.
Còn với VIB, chuyên gia cho rằng, việc giảm lãi suất để kích cầu tín dụng có thể giúp ngân hàng đạt mức tăng trưởng tín dụng khoảng 3% so với đầu năm. Tuy nhiên NIM được dự báo sẽ giảm trong quý II, còn chi phí tín dụng lại tăng thêm.
Do đó, các chuyên viên phân tích cho rằng lợi nhuận trước thuế sẽ đạt 2.100 tỷ đồng đến 2.000 tỷ đồng, tương ứng giảm từ 28% đến 25% so với cùng kỳ. Cả năm, lợi nhuận ròng của VIB ước tăng 3%.
Thêm một ngân hàng vượt mốc 70.000 tỷ đồng vốn điều lệ Techcombank vừa phát hành thêm 3,52 tỷ cổ phiếu, nâng vốn điều lệ lên 70.450 tỷ đồng, chỉ sau VPBank. |
Ngân hàng đẩy mạnh phát hành trái phiếu kê vốn Trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi đang chậm lại, các ngân hàng Việt đang ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn thị trường để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn và đảm bảo các yêu cầu về an toàn vốn cho tăng trưởng kinh doanh. |