WB: Nông nghiệp Việt Nam hướng tới mục tiêu lợi nhuận, môi trường và tăng thu nhập cho nông dân
WASHINGTON, D.C., MỸ – Media OutReach – Ngày 8 tháng 2 năm 2023 -Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi từ mục tiêu số lượng sang mục tiêu lợi nhuận, môi trường và tăng thu nhập cho nông dân.
Hàng chục năm qua, nông nghiệp Việt Nam luôn chạy theo chỉ tiêu sản lượng. Mô hình tăng trưởng này đã không tính đến lợi nhuận, thu nhập cho nông dân và tất cả các chi phí môi trường khác. Điều này dẫn đến một vấn đề nan giải là khi sản xuất và kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam tăng lên đến một mức nào đó thì thu nhập của người nông dân lại giảm đi theo thời gian. Việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng kinh tế lấy nông dân làm trung tâm sẽ giúp đảo ngược xu hướng này, cải thiện thu nhập cho nông dân và phục hồi hệ sinh thái, cải thiện môi trường ở nông thôn.
Tại COP26, Việt Nam cam kết sẽ giảm lượng khí thải ròng xuống 0% vào năm 2050.
Tại COP26, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết Việt Nam sẽ giảm phát thải ròng về 0% vào năm 2050 và sẽ giảm 30% lượng phát thải vào năm 2030 so với mức phát thải của năm 2020. Tại COP27, Việt Nam đã đệ trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (Nationally Determined Contribution -NDC) được cập nhật, trong đó đặt ra các mục tiêu cao hơn. Đối với nông nghiệp, mục tiêu NDC không điều kiện đến năm 2030 tăng từ 6,8 triệu tấn/NDC vào năm 2020 lên 12,4 triệu tấn/NDC vào năm 2022; mục tiêu NDC có điều kiện tăng từ 32,6 triệu tấn mỗi NDC vào năm 2020 lên 50,9 triệu tấn mỗi NDC vào năm 2022. Điều này dẫn đến nhu cầu tài chính tương ứng khoảng 2,1 tỷ USD và 16,1 tỷ USD để đáp ứng các mục tiêu có điều kiện và không điều kiện.
Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam năm 2022 thể hiện rõ thế mạnh, lợi thế so sánh trong chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu và vai trò quan trọng đối với an ninh lương thực toàn cầu. Kết quả này có được nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ của các đối tác quốc tế và việc sử dụng hiệu quả các dự án sử dụng nguồn vốn ODA.
Trồng lúa là nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất trong ngành nông nghiệp Việt Nam, thải ra khoảng 49,6 triệu tấn CO2 hàng năm. Việc chuyển sang sản xuất lúa gạo carbon thấp mang lại tiềm năng cao nhất cho Việt Nam trong việc giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí mê-tan.
Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững Việt Nam (Vietnam Sustainable Agriculture Transformation – VNSAT) do Ngân hàng Thế giới tài trợ đã chứng minh rằng, bằng cách áp dụng phương pháp canh tác lúa cải tiến được gọi là 1 phải 5 giảm (1 phải: giống phải được xác nhận; 5 giảm: số lượng giống gieo sạ, phân bón, thuốc trừ sâu, tưới nước và thất thoát sau thu hoạch), không chỉ giúp tăng năng suất và lợi nhuận ròng cho nông dân, mà còn giảm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính. Vào thời điểm kết thúc vào tháng 6 năm 2022, Dự án VNSAT đã có thể giảm khoảng 1,5 triệu tấn CO2 mỗi năm.
Những kinh nghiệm thành công này sẽ được nhân rộng nếu Chính phủ mở rộng hỗ trợ hơn nữa để cải thiện cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khuyến nông quy mô lớn. Các biện pháp canh tác cải tiến nếu được nhân rộng ra các vùng lúa trọng điểm còn lại ở Đồng bằng sông Cửu Long thì có thể giúp giảm hơn 9 triệu tấn CO2 mỗi năm. Quá trình triển khai Dự án VNSAT trong 7 năm (từ năm 2015 đến 2022) được đánh giá là dự án kiểu mẫu thành công nhất từ trước đến nay trong hợp tác quốc tế về nông nghiệp.
Trên cơ sở này, Ngân hàng Thế giới đang hỗ trợ Việt Nam tiếp cận các quỹ toàn cầu để tài trợ 100 triệu USD từ chi trả carbon cho canh tác lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long và chuẩn bị Dự án Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp carbon thấp (Low-carbon Agriculture Value Chain Development) sau Dự án VNSAT.
Với sự đồng hành của các đối tác quốc tế, Nông nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất đáp ứng tăng trưởng xanh, thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong cộng đồng quốc tế về phát triển bền vững, giảm phát thải, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẳng định: “Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế và mong muốn phát triển nền nông nghiệp của mình một cách có trách nhiệm, minh bạch và bền vững. Chúng tôi hy vọng các đối tác quốc tế sẽ tăng cường hợp tác với Việt Nam trong việc phát triển nền nông nghiệp xanh, bền vững và đạt được an ninh lương thực toàn cầu”.
Theo ông Ahmed Eiweida, Trưởng nhóm Phát triển bền vững Việt Nam (Ngân hàng Thế giới), mô hình tăng trưởng mới của Nông nghiệp Việt Nam thúc đẩy tính bền vững về môi trường, phục hồi hệ sinh thái và lấy nông dân làm trung tâm của sự phát triển, phù hợp với các thông lệ tốt nhất trên toàn cầu.
Ngoài ra, Việt Nam đã đạt được tiến bộ lớn trong cải cách chính sách nông nghiệp bằng những hành động cụ thể. Các chiến lược của Chính phủ như Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch tổng thể vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã nắm bắt một cách chính xác các nội dung chính của mô hình tăng trưởng mới của kinh tế nông nghiệp bao trùm cả sản xuất, thu nhập, xuất khẩu, việc làm, môi trường và phát triển nông thôn.
Tương ứng với sự thay đổi tư duy này, Ngân hàng Thế giới cũng đã điều chỉnh trọng tâm hỗ trợ phát triển hướng tới khả năng chống chịu khí hậu, đa dạng hóa sinh kế và nông nghiệp carbon thấp. Ngân hàng Thế giới cũng đang phối hợp với Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) và Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (The International Rice Research Institute – IRRI để hỗ trợ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng hệ thống Giám sát, Báo cáo và Xác minh (Monitoring, Reporting & Verification – MRV) chuẩn hóa cho lĩnh vực lúa gạo.
Nguồn phát hành hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của thông báo này.