Thành tựu 75 năm giáo dục Việt Nam: Từ phổ cập giáo dục đến đổi mới căn bản, toàn diện
Bộ Giáo dục và Đào tạo mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho học sinh bằng dạy học trực tuyến Bộ GD-ĐT vừa giới thiệu dự thảo Thông tư Ban hành quy định quản lý tổ chức dạy học trực tuyến đối với các cơ ... |
Ngành Giáo dục chủ động cung cấp thông tin cho báo chí và đẩy mạnh công tác truyền thông “Chủ động cung cấp thông tin định hướng cho báo chí nhằm phản ánh đúng những công việc của ngành đã và đang triển khai. ... |
Năm 1945, khi Việt Nam vừa giành được độc lập, đất nước ta có tới 95% dân số mù chữ. Ngay sau ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". 75 năm qua, giáo dục đã phát triển cùng sự phát triển của dân tộc và luôn đóng vai trò quan trọng như một trụ cột cơ bản của việc xây dựng và vun đắp cho nền văn hiến lâu đời của đất nước.
Nỗ lực xóa mù chữ, phổ cập giáo dục
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ được thành lập (Sắc lệnh số 19). Chỉ sau một năm hoạt động, Bình dân học vụ đã có 74.957 lớp học xóa mù chữ và có hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ (ước tính cả nước lúc đó có 22 triệu người). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Đảng và Chính phủ vẫn quan tâm lãnh đạo toàn dân tiếp tục công cuộc xóa mù chữ và tổ chức các lớp bổ túc văn hóa, góp phần đào tạo cán bộ, bồi dưỡng sức dân, đưa kháng chiến đến thắng lợi.
“Bình dân học vụ” là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8/9/1945, ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập, nhằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất của đất nước thời gian đó. Ảnh: Tư liệu TTXVN |
Sau khi đất nước thống nhất, công cuộc xóa mù chữ tiếp tục sứ mệnh của mình với mục tiêu và nhiệm vụ cao hơn – đó là phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và giáo dục thường xuyên. Đến năm 2000, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước với 98,03% số quận, huyện; 98,53% số xã, phường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia xóa mù chữ. Hầu hết trẻ em trong độ tuổi đều được đi học Tiểu học; 94% dân số trong độ tuổi 15 - 35 đã biết chữ. Đó thực sự là một mốc son lớn trong lịch sử giáo dục nước nhà.
Theo báo cáo của các Sở Giáo dục và Đào tạo, hiện nay tỷ lệ người biết chữ độ tuổi từ 15-60 là 97,65%. Trong đó, số người biết chữ trong độ tuổi 15-35 chiếm 98,92%; số người biết chữ trong độ tuổi từ 36-60 chiếm 96,2%. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ độ tuổi 15-60 là 93,44%. Có 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện và 99,9% đơn vị cấp xã duy trì đạt chuẩn xóa mù chữ.
Chất lượng phổ cập giáo dục Tiểu học được giữ vững và nâng cao, 63/63 tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ 2, trong đó 14 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ 3.
Chất lượng phổ cập giáo dục Trung học cơ sở được duy trì bền vững, 63/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục Trung học cơ sở mức độ 1, trong đó một số tỉnh đạt chuẩn phổ cập Trung học cơ sở mức độ 2 và 3. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục.
Bên cạnh công tác phổ cập, ngành Giáo dục và Đào tạo đã mở ra nhiều cơ hội học tập cho mọi lứa tuổi với nhiều hình thức và phương thức khác nhau, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Nhấn mạnh những nỗ lực của Việt Nam trong công cuộc phổ cập giáo dục và xóa nạn mù chữ, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho rằng: Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công cuộc xóa nạn mù chữ hiệu quả. Trong 75 năm qua, Việt Nam không chỉ xóa được nạn mù chữ, mà còn phổ cập giáo dục bền vững và nâng cao. Có thể nói, đây là một thành tựu mà không phải quốc gia nào trong nhóm các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình thấp cũng đạt được. Bởi đạt phổ cập giáo dục đã là nỗ lực lớn, nhưng duy trì kết quả phổ cập giáo dục bền vững và nâng cao chất lượng phổ cập trong các năm tiếp theo là công việc đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn nữa, đặc biệt là đảm bảo sự công bằng trong tiếp cận với các điều kiện học tập của học sinh ở các vùng miền khác nhau.
Việc nỗ lực xóa mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục trong điều kiện kinh tế còn khó khăn cho thấy tầm nhìn của Việt Nam trong việc đặt trọng tâm vào lĩnh vực giáo dục, đảm bảo các điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, từ đó tạo nên sức mạnh nội lực của đất nước trong thế kỷ XXI.
Bước chuyển lớn trong đổi mới giáo dục và đào tạo
Song hành cùng công cuộc xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục, trong 75 năm qua, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để cải cách, đổi mới nền giáo dục nước nhà.
Năm 1950, trong hoàn cảnh đất nước còn muôn vàn khó khăn nhưng đã diễn ra cuộc cải cách giáo dục lần đầu tiên nhằm mục tiêu xây dựng một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Đến năm 1956, cải cách giáo dục lần thứ hai hướng tới đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những công dân tốt, có đức, có tài. Năm 1981, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba toàn diện hơn, đồng bộ hơn nhằm tạo bước chuyển biến mới về hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học.
Tiết học của lớp 1C trường Tiểu học Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. |
Hiện nay, cả nước đang tích cực tiến hành một "cuộc cách mạng" về giáo dục với việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), bảo đảm cho giáo dục Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Nghị quyết 29 đã được các cấp, các ngành triển khai tích cực từ trung ương tới cơ sở và từng bước đi vào cuộc sống. Đổi mới giáo dục và đào tạo được thực hiện ở tất cả các cấp học, ngành học. Ngành giáo dục đã thể hiện quyết tâm đổi mới và kiên trì thực hiện nhiệm vụ cốt lõi, đột phá, đó là: đổi mới công tác thi, kiểm tra, đánh giá, kiểm định chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Giáo dục và đào tạo tại các vùng đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa luôn được ưu tiên đầu tư phát triển. Công tác đào tạo nguồn nhân lực được chú trọng về số lượng, chất lượng và hiệu quả.
Mặc dù sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo rất khó khăn, phức tạp nhưng dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia có hiệu quả của cả hệ thống chính trị, các mục tiêu nêu trong Nghị quyết 29 bước đầu đạt được một số kết quả.
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ở bậc Mầm non, năm học 2013 - 2014, cả nước mới có 18 tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi thì đến năm 2017, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Nội dung chương trình giáo dục mầm non được đổi mới đã giúp trẻ tự tin, chủ động trong giao tiếp và tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục. Trẻ em có nhiều tiến bộ và phát triển tốt cả 5 lĩnh vực: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm và kỹ năng xã hội, thẩm mỹ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi giảm xuống đều đặn hằng năm.
Với giáo dục phổ thông, những năm gần đây, chất lượng giáo dục phổ thông nước ta đã trở thành tâm điểm nghiên cứu của thế giới. Giáo dục hướng nghiệp đã được quan tâm đổi mới về nội dung, đa dạng hóa các hình thức theo hướng thiết thực, tăng tính thực hành, gắn với thực tiễn. Giáo dục mũi nhọn đã được chú trọng và tiếp tục đạt kết quả tốt. Học sinh Việt Nam khi tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực, sáng tạo khoa học kỹ thuật quốc tế luôn đứng ở vị trí top đầu. Tổng số Huy chương Vàng đạt được trong 5 năm qua tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước đó. Từ năm 2016-2019, Việt Nam có 187 lượt thí sinh dự thi Olympic khu vực và quốc tế, đạt 146 giải (45 Huy chương Vàng, 60 Huy chương Bạc, 35 Huy chương Đồng và 6 Bằng khen).
Cả 4/4 thí sinh dự thi Olympic Hóa học quốc tế năm 2020 của Đội tuyển quốc gia Việt Nam đều đoạt Huy chương Vàng. Kết quả chung của toàn Đội tuyển Việt Nam xếp thứ hai, sau Hoa Kỳ. |
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, số công trình khoa học được công bố trong nước và quốc tế tăng mạnh, vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới. Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 3 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới; có 8 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á. Chất lượng nguồn nhân lực đã có chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu về tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước 10 năm qua có phần đóng góp quan trọng của đội ngũ lao động trình độ cao mà đa số được đào tạo trong nước.
Tuy nhiên, giáo dục là một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến từng người, từng nhà. Mỗi bước đi của ngành Giáo dục luôn có sự dõi theo của cả xã hội, điều đó vừa là động lực nhưng cũng tạo ra áp lực để ngành phải đổi mới và chuyển biến không ngừng theo hướng tích cực, đáp ứng được sự kỳ vọng của nhân dân.
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Phạm Văn Linh cho rằng: Trong hai thập niên gần đây, tốc độ phát triển khoa học công nghệ diễn ra nhanh như vũ bão, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra và hình thành nhiều ngành nghề, phương thức sản xuất mới dựa trên nền tảng của công nghệ thông minh và phân tích cơ sở dữ liệu lớn. Do vậy, xã hội đòi hỏi có một nền giáo dục kiểu mới để tạo nguồn nhân lực thích ứng với nền kinh tế số. Mặc dù nhiều nghị quyết đã ban hành, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học đã được sửa đổi, nhưng trong điều kiện hiện nay, giáo dục – đào tạo hơn lúc nào hết cần có cơ chế và chính sách khơi dậy niềm đam mê của người học, người thầy, nhà trường và toàn xã hội để nghiên cứu, tiếp thu, làm chủ tri thức, sáng tạo công nghệ mới, đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng và nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Năm 2020: Bộ Giáo dục không gộp chung điểm 3 môn bài thi tổ hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết sẽ không tiến hành gộp chung điểm 3 môn thành phần của bài thi tổ hợp Khoa ... |
Bộ Giáo dục hướng dẫn giảm tải nội dung học kỳ II do dịch Covid-19 Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành công văn số 1125/BGDĐT-GDTH về việc hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học ... |