Dự báo GDP năm 2018 tăng khoảng 6,65%
Sáng 16/1, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tổ chức Tọa đàm công bố Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý IV/2017 và cả năm 2017.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng VEPR, 2017 là năm đầu tiên sau nhiều năm hoàn thành 13 chỉ tiêu kinh tế xã hội do Quốc hội đề ra. Trong đó, GDP cả nước ước tăng 6,81%, cao hơn mục tiêu đã đề ra là 6,7%. Trong khi lạm phát cả năm được kiểm soát ở mức thấp, trái với những dự đoán về gia tăng lạm phát trong quý cuối năm do sự điều chỉnh giá các mặt hàng như y tế, giáo dục và xăng dầu. Điều này phản ánh chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cũng như nỗ lực của các cấp trong việc kiềm chế giá cả thị trường.
Xuất siêu lớn của khu vực FDI một mặt góp phần quan trọng mang lại một năm thặng dư thương mại cao, mặt khác đặt ra câu hỏi về tính bền vững của nền kinh tế nội địa khi phụ thuộc ngày càng nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Trái với những dự đoán về gia tăng lạm phát trong quý cuối năm do sự điều chỉnh giá các mặt hàng như y tế, giáo dục và xăng dầu, lạm phát quý IV đã diễn biến ổn định. Điều này phản ánh chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cũng như nỗ lực của các cấp trong việc kiềm chế giá cả thị trường. Cán cân thanh toán tổng thể thặng dư (3,4% GDP) đã giúp NHNN bổ sung lượng dự trữ ngoại hối lớn. Dự trữ ngoại hối cao giúp NHNN có thêm không gian để tiếp tục duy trì nới lỏng tiền tệ, giảm lãi suất, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các đại biểu tham gia buổi Tọa đàm được tổ chức sáng 16/1. (Ảnh nguồn internet)
Một thành công nữa của Việt Nam trong năm qua là môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện tích cực. Chỉ số xếp hạng mức độ thuận lợi trong kinh doanh của Việt Nam do Ngân hàng Thế giới công bố được cải thiện mạnh mẽ. Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam 2017 – 2018 tiếp tục nhảy 14 bậc, phản ánh kết quả tích cực của ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách hành chính và môi trường đầu tư. Điều đó thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực FDI, góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Theo tính toán của VEPR, tăng trưởng kinh tế năm 2018 được dự báo chỉ đạt 6,65%, thấp hơn mức 6,81% của năm 2017 với lạm phát duy trì ở ngưỡng 4%. Trong đó, tăng trưởng kinh tế theo quý sẽ tăng dần với mức thấp nhất vào quý I/2018 là 6,02% và cao nhất vào quý IV với 7,27%.
Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, kinh tế vĩ mô tuy đã có sự ổn định, nhưng nhiều vấn đề nội tại cố hữu của nền kinh tế vẫn chưa được giải quyết triệt để. Điều này sẽ vẫn là lực cản đối với nền kinh tế trong tương lai. Trong đó, 3 vấn đề được VEPR nhấn mạnh là năng suất lao động, thâm hụt ngân sách và sự phụ thuộc vào khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 1/14 so với Singapore, 1/6 so với Malaysia và 1/3 so với Thái Lan. Nếu không có những biện pháp tổng thể giúp nâng cao năng suất lao động trong tương lai gần, trong bối cảnh cơ cấu dân số vàng sắp đi qua, Việt Nam sẽ khó có thể duy trì được đà tăng trưởng như hiện nay.
Tiếp đến thâm hụt ngân sách và nợ công tăng cao tiếp tục là vấn đề nghiêm trọng cản trở nền kinh tế. Trong khi nguồn vốn chi đầu tư công còn hạn chế, chi thường xuyên vẫn ở mức cao tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, các nhà tài trợ nước ngoài sẽ lần lượt rút dần vốn khỏi Việt Nam và chỉ cho vay với các mức lãi suất kém ưu đãi hơn.
Cuối cùng là việc phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo ra nhiều bất trắc, tiềm ẩn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới năm 2018 có thể đối mặt với nhiều rủi ro bất định lớn liên quan đến địa chính trị và xu hướng bảo hộ thương mại của một số nước lớn cũng như sự thay đổi ngày càng nhanh của khoa học và công nghệ.
Minh Anh