Đâu mới thực sự là nút thắt tăng trưởng nền kinh tế?
Vừa qua, việc Chính phủ thể hiện rõ quyết tâm đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,7% trong năm 2017 đã gây nhiều tranh luận. Các giải pháp được đề xuất cho thấy Chính phủ đang ở thế bí. Với một nền kinh tế mà tăng trưởng vẫn còn chủ yếu dựa vào vốn như Việt Nam, muốn có tăng trưởng cao, vẫn phải tăng đầu tư vào khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng ….
Nhưng hiện nay cả đầu tư tư nhân lẫn đầu tư công đều đang bị nợ xấu và nợ công cản trở. Bởi vậy, trong thời gian tới tích cực xử lý nợ xấu để giảm lãi suất, khơi thông dòng tín dụng vẫn là giải pháp căn cơ hơn so với tăng khai thác dầu, tăng khai thác than hay thúc đẩy tăng trưởng trong lĩnh vực nông nghiệp.
Theo các số liệu thống kê, mặt bằng lãi suất danh nghĩa tại Việt Nam hiện nay chỉ vào khoảng 40% so với năm 2011. Nhưng lãi suất thực, chứ không phải lãi suất danh nghĩa, mới là yếu tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nếu sử dụng lạm phát cơ bản làm thước đo, mặt bằng lạm phát hiện nay chỉ vào khoảng 10% so với năm 2011. Do vậy, mức lãi suất thực hiện nay cao hơn nhiều so với năm 2011. Đây là nguyên nhân góp phần khiến cho không chỉ ngành công nghiệp khai khoáng mà cả ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng đang gặp khó khăn.
Điều gì khiến cho lãi suất danh nghĩa không thể giảm mạnh theo lạm phát?
Nợ công là một trong những nguyên nhân hay được nhắc đến. Điều này đúng, nhưng trong điều kiện “các yếu tố khác không thay đổi”. Trên thực tế, nếu lạm phát không quá cao, các tác động tiêu cực của nợ công đến lãi suất thường sẽ được các NHTW hoá giải thông qua việc tăng cung tiền. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, cho dù nợ công lên tới hơn 200% GDP, NHTW vẫn có thể đưa lãi suất xuống còn 0% mà lạm phát vẫn thấp.
Tại Việt Nam, từ năm 2012 NHNN cũng tích cực tăng cung tiền M2 ra nền kinh tế với tốc độ trung bình khoảng 20%/năm, nhưng tác động tới lãi suất vẫn còn hạn chế. Có một số lý do:
Thứ nhất, NHNN tăng cung tiền bằng cách mua USD nhiều hơn là mua TPCP. Nếu NHNN sẵn sàng nắm giữ ít USD hơn, đồng thời mua nhiều TPCP hơn, mặt bằng lãi suất có thể thấp hơn.
Thứ hai, mặc dù việc NHNN mua USD hay mua TPCP có thể giúp tăng thanh khoản của hệ thống ngân hàng và giảm lãi suất ngắn hạn, tiền của NHNN không thể thay thế hoàn toàn tiền gửi tiết kiệm của người dân, đặc biệt là với tiền gửi dài hạn. Vì NHNN hiện nay không thể mua nợ xấu như mua nợ công, nên khi một số NHTM nào đó bị mất vốn vì nợ xấu, họ vẫn phải tăng vay từ người dân và doanh nghiệp, đồng thời tạo áp lực lên lãi suất. Đây là điểm khác biệt giữa nợ công và nợ xấu.
Nếu lãi suất danh nghĩa khó giảm, lãi suất thực cũng có thể giảm nếu lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, những diễn biến kinh tế vĩ mô gần đây cho thấy lạm phát cũng đang giảm mạnh cùng với tăng trưởng và nguy cơ giảm phát đang dần hiện hữu. Trong 5 tháng đầu năm 2017 lạm phát tổng thể chỉ tăng 0,37%. Nếu không tính giá dịch vụ y tế được điều chỉnh bằng biện pháp hành chính, lạm phát trong 5 tháng đầu năm 2017 đã âm, trong đó có 3 tháng âm liên tiếp (từ tháng 3 đến tháng 5). Mặc dù nguyên nhân trực tiếp khiến chỉ số CPI giảm là do giá thịt lợn giảm, nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là do tổng cầu yếu. Việc cả tăng trưởng và lạm phát đều thấp như hiện nay không phải là tín hiệu tích cực.
Trên thực tế, xu hướng lạm phát giảm đã có từ lâu. Trong suốt 6 năm qua lạm phát cơ bản đã liên tục giảm (từ mức 13,6% năm 2011 xuống còn 8,2% năm 2012; 4,8% năm 2013; 3,3% năm 2014; 2,1% năm 2015, 1,8% năm 2016 và 1,6% trong 5 tháng đầu năm 2017), bất chấp cung tiền M2 tăng tới 20%/năm. Điều này cho thấy, nền kinh tế đang thiếu tiền do “cục máu đông” nợ xấu cản trở tín dụng thực chất. Với xu hướng lạm phát giảm hiện nay, lãi suất thực sẽ tiếp tục gia tăng và khiến khu vực sản xuất lại càng khó khăn hơn.
Như vậy, nợ xấu vẫn là nút thắt khó gỡ nhất đối với tăng trưởng. Nếu không xử lý triệt để được nợ xấu, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng giảm phát trong một vài năm tới.
TS Nguyễn Đức Độ