![]() |
![]() |
- Trong những năm qua, Việt Nam đã ban hành những giải pháp gì trong công tác dạy và học tiếng Việt cho kiều bào, thưa GS?
Để đáp ứng nhu cầu của kiều bào, ngày 22/3/2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 281/2004/QĐ-TTG phê duyệt Đề án “Hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài” với bốn nhóm nhiệm vụ chính, trong đó có việc xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dạy học tiếng Việt và bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Thực hiện Quyết định của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GDĐT) đóng vai trò chính trong Đề án đã hoàn thành các công việc sau:
Năm 2006, Bộ GDĐT đã ban hành hai chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài: Chương trình dành cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Chương trình dành cho người lớn. Vào năm 2018, hai chương trình được hợp nhất và điều chỉnh thành chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Hai bộ sách "Tiếng Việt Vui" và "Quê Việt" dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài. |
Căn cứ vào hai chương trình nói trên, Bộ GDĐT đã tổ chức biên soạn và xuất bản hai bộ sách dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài: Bộ sách Tiếng Việt Vui dành cho thanh niên, thiếu niên và bộ sách Quê Việt dành cho người lớn. Các bộ sách này được xuất bản và phát hành miễn phí dưới 2 hình thức sách in và sách điện từ trên không gian mạng. Dựa vào hai bộ sách, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV) cũng đã xây dựng và truyền thanh, truyền hình các bài dạy tiếng Việt.
Tiếp theo, vào năm 2017, thực hiện thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (CNDCND Lào), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam biên soạn và xuất bản bộ sách Tiếng Việt dành cho học sinh ở Lào, trong đó hai tập sách đầu dùng để dạy cho những trẻ em hoàn toàn chưa biết tiếng Việt.
Bộ GDĐT đã phối hợp với Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (UB NN VNVNONN) và đại sứ quán Việt Nam ở các nước, tổ chức nhiều đợt bồi dưỡng tại Việt Nam và nước ngoài cho giáo viên dạy tiếng Việt của cộng đồng kiều bào.
Nhiều đợt bồi dưỡng cho giáo viên dạy tiếng Việt của cộng đồng kiều bào đã được tổ chức. |
- GS đánh giá như thế nào về hiệu quả việc dạỵ và học tiếng Việt cho con em kiều bào hiện nay? Nguyên nhân vì sao?
Theo UB NNVNVNONN, hiện có hơn 6 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 80% ở các nước phát triển. Sinh sống xa quê hương, trong những môi trường khác lạ, kiều bào ta phải thích nghi với ngôn ngữ, văn hoá, kinh tế của nước sở tại để hội nhập và phát triển nhưng vẫn luôn hướng về cội nguồn, giữ gìn những giá trị văn hóa Việt Nam cao đẹp, đồng thời mong muốn trao truyền tình yêu Tổ quốc và văn hóa Việt Nam, trong đó có tiếng Việt cho con em... Tuy nhiên, việc dạy và học tiếng Việt cho con em kiều bào ở các nước nói chung chưa đạt hiệu quả cao vì những khó khăn chính như sau:
Thứ nhất, thiếu tài liệu dạy học. Kiều bào ở hầu hết các nước đều sử dụng bộ sách giáo khoa phổ thông Tiếng Việt mang từ Việt Nam sang làm tài liệu dạy học. Tuy nhiên, bộ sách này chỉ phù hợp với đối tượng học sinh đã nói tiếng Việt trôi chảy trước khi đến trường; vào tiểu học, sách dạy các em học đọc, học viết và tiếp tục phát triển các kỹ năng nói, nghe lên mức độ cao hơn. Trong khi đó, phần lớn con em của kiều bào chưa biết nói hoặc nói chưa trôi chảy tiếng Việt, vốn từ, vốn ngữ pháp tiếng Việt chưa có hoặc còn rất hạn chế, không phải là đối tượng sử dụng sách dành cho học sinh ở Việt Nam. Con em kiều bào, đặc biệt là các cháu nhỏ, cũng không thể học sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài vì những sách này dạy cho người lớn là những người đã có kiến thức về tiếng mẹ đẻ và nói chung đã sử dụng thành thạo chữ Latin.
GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết (hàng đầu, thứ năm từ phải sang) tham dự Hội thảo quốc tế về tầm quan trọng của việc giảng dạy, gìn giữ tiếng Việt và văn hóa Việt trong cộng đồng người Việt Nam tại nước ngoài. |
Thứ hai, thiếu giáo viên có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp. Ở hầu hết các nước, giáo viên dạy tiếng Việt là những thành viên tâm huyết trong cộng đồng, làm nhiều nghề nghiệp khác nhau, không được đào tạo về ngôn ngữ học và sư phạm. Vì vậy, trừ những giáo viên đã dạy lâu năm, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, đội ngũ giáo viên nói chung còn gặp nhiều khó khăn và chưa đạt được hiệu quả dạy học mong muốn.
Thứ ba, thiếu môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt. Môi trường giao tiếp là những điều kiện vật chất và tinh thần thúc đẩy nhu cầu giao tiếp và hỗ trợ hoạt động giao tiếp của con người. Cũng như các bậc cha anh, trẻ em Việt Nam ở nước ngoài trước hết phải sử dụng thành thạo ngôn ngữ bản địa để học hành và phát triển. Môi trường giao tiếp hằng ngày bằng ngôn ngữ bản địa vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện cho các em nắm vững ngôn ngữ ấy. Để học tiếng Việt, ngoài môi trường giao tiếp trong gia đình, yêu cầu giao tiếp xã hội bằng tiếng Việt và các phương tiện hỗ trợ như sách báo, chương trình phát thanh, truyền hình, phim ảnh... bằng tiếng Việt rất hạn chế. Đó cũng là một khó khăn lớn đối với việc ứng dụng những điều đã học được và phát triển khả năng sử dụng tiếng Việt.
- Để nâng cao hiệu quả của việc dạy tiếng Việt cho con em kiều bào, theo GS cần phải có số giải pháp mới như thế nào?
Để tiếp tục hỗ trợ kiều bào nâng cao hiệu quả của việc dạy tiếng Việt cho con em, chúng tôi đề xuất một số giải pháp mới như sau:
Thứ nhất, biên soạn sách. Rất may mắn là mấy năm gần đây đã có thêm nhiều bộ sách dạy tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam ở nước ngoài được xuất bản. Đặc biệt là Mạng lưới giảng dạy Tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam toàn cầu vừa thành lập đã kịp thời phối hợp với Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn bộ sách Vui học tiếng Việt mà quyển đầu tiên dành cho trẻ em hoàn toàn chưa biết tiếng Việt, chưa biết chữ Latin vừa ra đời cách đây hơn một tháng.
Lễ ra mắt Mạng lưới giảng dạy Tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam toàn cầu. |
Mạng lưới sẽ tổ chức tập huấn cho giáo viên dạy theo quyển sách này bằng hình thức trực tuyến vào ba buổi sáng 1/11, 8/11 và 15/11/2025 tới, từ 10h-12h (giờ Việt Nam). Nội dung các buổi tập huấn sẽ được ghi hình và phát trên mạng phục vụ giáo viên ở các quốc gia, vùng lãnh thổ không có điều kiện tham dự vì chênh lệch múi giờ nhiều.
Thứ hai, bồi dưỡng giáo viên. Mặc dù trong những năm qua, Đề án hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ GDĐT, UB NN VNVNONN đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng trực tiếp cho giáo viên nhưng số giáo viên chưa được tham gia các lớp bồi dưỡng còn nhiều, ngân sách nhà nước có hạn nên khó có thể giải quyết vấn đề bằng cách bồi dưỡng trực tiếp thường xuyên. Ngay cả những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới cũng không có đủ kinh phí cử chuyên gia tới hàng trăm nước hoặc mời giáo viên từ tất cả các nước lần lượt đến quốc gia đó dự bồi dưỡng trực tiếp. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ GDĐT nên chủ trì phối hợp với UB NNVNVNONN, VTV và VOV tổ chức bồi dưỡng giáo viên theo hình thức trực tuyến và coi đây là việc làm thường xuyên, do một đơn vị thuộc Bộ GDĐT chịu trách nhiệm.
Giáo viên dạy tiếng Việt tại Fukuoka (Nhật Bản) hướng dẫn học sinh phân biệt các loại quả.
Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy học. Từ trước đến nay có nhiều phương pháp dạy học nhưng tựu trung lại có hai định hướng chính: dạy theo định hướng cấu trúc (dạy ngữ pháp) và dạy theo định hướng giao tiếp (dạy thông qua các hoạt động giao tiếp, gắn với tình huống giao tiếp để đáp ứng nhu cầu giao tiếp).
Vận dụng định hướng giao tiếp vào việc dạy tiếng Việt cho trẻ em và thanh niên Việt Nam ở nước ngoài, giáo viên cần chú ý những điểm sau: Giờ học được tiến hành bằng tiếng Việt. Đối với lớp dành cho người bắt đầu học, vì học sinh chưa hiểu các câu lệnh (giao nhiệm vụ nói, nghe, nhắc lại...), giáo viên có thể vừa nhắc lại câu lệnh, vừa làm mẫu để học sinh hiểu nhiệm vụ; Dạy bằng lời nói (khẩu ngữ) trước khi dạy dạng viết; Dạy từ và câu có nghĩa cụ thể bằng hình ảnh trước, dạy nghĩa trừu tượng sau; Đặt học sinh vào tình huống giao tiếp cụ thể để tiếp nhận quy tắc và luyện tập. Đối với những nhiệm vụ khó, giáo viên làm mẫu hoặc mời 1 - 2 học sinh làm mẫu trước để cả lớp làm theo.
Thứ tư, tạo môi trường giao tiếp thuận lợi. Môi trường giao tiếp đầu tiên và quan trọng nhất là ở gia đình. Do đó, cha mẹ nên hát những bài hát ru bằng tiếng Việt, trò chuyện để kích thích thính giác, giúp trẻ làm quen với âm thanh tiếng Việt; sử dụng cử chỉ, nét mặt để kết nối ngôn ngữ với hành động, giúp trẻ bước đầu nhận thức được nghĩa của từ và câu.
Cần tạo môi trường thuận lợi để các em nhỏ Việt Nam ở nước ngoài có cơ hội tiếp xúc với văn hóa Việt, giao tiếp bằng tiếng Việt. |
Trong giai đoạn tiền thao tác (từ 2-7 tuổi), trẻ bắt đầu sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt suy nghĩ nhưng còn hạn chế về tư duy. Cha mẹ nên hỗ trợ con bằng cách dạy từ và câu qua tranh ảnh, kể chuyện cho con, cùng con đóng vai để giúp trẻ phát triển vốn từ và hiểu cách sử dụng ngôn ngữ trong ngữ cảnh cụ thể. Từ cuối giai đoạn này, trẻ bắt đầu đến lớp. Mỗi khi con đi học về, cha mẹ cần hỏi con hôm nay học gì và trò chuyện với con về đề tài được học trên lớp, phối hợp với giáo viên để giúp con học tập có kết quả. Trẻ cũng nên được xem phim hoạt hình, video ca nhạc và một số chương trình truyền hình Việt Nam dành cho trẻ em.
Nếu ngay cả gia đình cũng không tạo ra được môi trường giao tiếp thuận lợi để giúp trẻ em học tiếng Việt từ nhỏ, các em sẽ gặp những khó khăn lớn mà người nước ngoài học tiếng Việt thường gặp, như: phát âm đúng thanh điệu, xưng hô đúng vai.
Môi trường giao tiếp thứ hai cũng rất quan trọng là ở lớp học. Lớp học nên được trang trí bằng các hình ảnh Việt Nam, ảnh và tên học sinh bằng tiếng Việt, tạo ra không gian Việt Nam gần gũi để khích lệ hoc sinh. Giáo viên cố gắng giao tiếp với học sinh bằng tiếng Việt nhiều nhất có thể.
Chúng tôi cũng đề nghị VTV sản xuất và đưa lên sóng nhiều video học tiếng Việt (như các Chương trình ABC Song, Baby Shark, Baby Bus trong tiếng Anh...); đề nghị các nhà xuất bản, trước hết là Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà xuất bản Kim Đồng, biên soạn và xuất bản nhiều sách tranh dạy tiếng Việt, nhiều truyện đọc dễ hiểu với trẻ em Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ việc học tiếng Việt của các em.
- Trân trọng cảm ơn GS!
![]() |
|
Bài viết: Phạm Lý Thiết kế: Mai Anh |


