Sáng kiến, đề xuất nhằm giữ gìn “tiếng mẹ thân thương” cho trẻ gốc Việt tại Nhật

10:14 | 07/12/2025

Cộng đồng người Việt tại Nhật Bản hiện có gần 600 nghìn người và ngày càng lớn mạnh. Việc duy trì tiếng Việt ở xứ sở mặt trời mọc trở thành một sứ mệnh quan trọng và thiêng liêng, bởi ngôn ngữ là linh hồn, là di sản văn hóa, là bản sắc dân tộc, là phương tiện giao tiếp thiết yếu và là sợi dây kết nối các thế hệ, giúp dân tộc tồn tại và phát triển, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tại một Hội thảo khoa học quốc tế về ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt cho rằng: cần một cách tiếp cận bài bản hơn, với giáo trình phù hợp và sự hỗ trợ song ngữ trong lớp học.
Hành trình gieo duyên tiếng Việt ở Sri Lanka
Kaneya Manabu và hành trình tìm thấy Việt Nam từ tiếng Việt

Tài liệu dạy - học cần thiết kế theo hướng mở

Theo thống kê của Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, hiện gần 600.000 người đang sinh sống, học tập và làm việc tại 47 tỉnh, thành phố Nhật Bản, đưa cộng đồng này trở thành nhóm cư dân nước ngoài lớn thứ hai tại quốc gia này. Cùng với đó là sự xuất hiện ngày càng đông của thế hệ trẻ em gốc Việt, sinh ra hoặc lớn lên trong môi trường tiếng Nhật chiếm ưu thế.

Dữ liệu của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản cho thấy, năm tài khóa 2023 có gần 3.800 học sinh có tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt cần hỗ trợ tiếng Nhật như ngôn ngữ thứ hai. Đây là chỉ báo quan trọng về quy mô nhóm trẻ có liên hệ gốc Việt, đồng thời cho thấy nhu cầu cấp thiết trong việc giữ gìn tiếng Việt cho các em.

Lớp học tiếng Việt tại trường Việt ngữ Cây tre (Osaka, Nhật Bản)
Lớp học tiếng Việt tại trường Việt ngữ Cây tre (Osaka, Nhật Bản).

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh duy trì tiếng mẹ đẻ giúp tăng cường gắn kết gia đình, củng cố bản sắc văn hóa, hỗ trợ phát triển nhận thức song ngữ và mở rộng cơ hội tương lai. Trong cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản, điều này càng trở nên rõ rệt khi không ít trẻ gặp khó khăn trong việc nói, hiểu hoặc diễn đạt bằng tiếng Việt. Vốn từ bị thu hẹp, không hiểu lời ông bà, không giao tiếp được với họ hàng... là những câu chuyện thường gặp.

Các lớp học tiếng Việt cuối tuần hay sinh hoạt cộng đồng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của trẻ em gốc Việt hiện nay. Cần một chương trình, tài liệu và phương pháp dạy tiếng Việt phù hợp với điều kiện đặc thù tại Nhật Bản.

PGS.TS Trịnh Cẩm Lan, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Việt ngữ - Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), thành viên Ban biên soạn bộ sách Kết nối Chân trời tri thức, cho rằng chưa có bộ tài liệu chính thống nào dành riêng cho dạy tiếng Việt di sản, trong khi giáo trình dành cho trẻ em tại Việt Nam không phù hợp với bối cảnh học tập ở nước ngoài. Ngược lại, giáo trình dạy tiếng Việt như ngoại ngữ cũng chưa đáp ứng đúng nhu cầu vì trẻ em học ngôn ngữ di sản tiếp thu tiếng Việt từ nhỏ trong gia đình, chứ không phải khởi đầu như người học ngoại ngữ.

Theo PGS.TS Trịnh Cẩm Lan, tài liệu dạy - học ngôn ngữ di sản cần được thiết kế theo hướng mở - kết hợp giữa phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ hai. Học sinh gốc Việt ở nước ngoài không giống trẻ em học tiếng mẹ đẻ tại quê nhà, cũng không hoàn toàn giống người học tiếng Việt như ngoại ngữ, vì vậy sách và phương pháp cần phản ánh đúng đặc điểm học tập của nhóm đối tượng đặc thù này.

Bà cũng dẫn các nguyên tắc do Peyton, J. K., Ranard, D.A., & McGinnis, S. (Eds) đề xuất cho biên soạn tài liệu dạy ngôn ngữ di sản: phù hợp trình độ, lứa tuổi, đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa người học, với mục tiêu và nội dung dạy học và với điều kiện và nguồn lực dạy học; có tính hấp dẫn và sinh động; bảo đảm tính thực tiễn, chú trọng kỹ năng giao tiếp; đồng thời linh hoạt cho phép giáo viên điều chỉnh nội dung, phương pháp theo nhu cầu của học sinh và đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá. Đây là những gợi ý quan trọng cho việc xây dựng tài liệu tiếng Việt di sản trong bối cảnh cộng đồng Việt tại Nhật đang ngày càng lớn mạnh.

Tiếng Nhật là cầu nối để học tiếng Việt hiệu quả hơn

Theo ThS Phạm Phi Hải Yến, nghiên cứu sinh Đại học Osaka (Nhật Bản), tiếng Nhật có thể trở thành nguồn lực sư phạm quan trọng trong việc dạy tiếng Việt như ngôn ngữ di sản tại Nhật Bản. Khi được sử dụng linh hoạt thông qua chiến lược translanguaging (luân phiên hai ngôn ngữ trong lớp học), tiếng Nhật giúp học sinh hiểu bài, tự tin hơn và phát triển bản sắc song ngữ bền vững.

ThS Phạm Phi Hải Yến cho rằng người học ngôn ngữ di sản thường có nền tảng cảm xúc gắn với tiếng Việt nhưng lại thiếu hệ thống ngôn ngữ học thuật để sử dụng thành thạo. Vì vậy, sử dụng tiếng Nhật để giải thích từ vựng, hướng dẫn bài tập hoặc so sánh hai ngôn ngữ là cần thiết và hoàn toàn không làm giảm khả năng tiếp thu tiếng Việt. Ngược lại, nó giúp trẻ thấy an toàn, giảm áp lực và tăng động lực học tập.

Lớp học tiếng Việt do ThS Phạm Phi Hải Yến đứng lớp
Lớp học tiếng Việt do ThS Phạm Phi Hải Yến đứng lớp.

Trong lớp học online Líu Lo tiếng Việt do ThS Phạm Phi Hải Yến giảng dạy, học sinh Nakayama Miyu (lớp 5) chia sẻ: "Cô giáo nói tiếng Nhật giúp con thấy dễ hiểu bài hơn, dễ nhớ hơn… Những lúc cô giáo nói tiếng Việt nhiều mà con không hiểu nghĩa, con thấy lười học vì không hiểu bài".

Học sinh Ono Maika (lớp 6) cũng cho biết: "Trước đây con học với cô giáo chỉ nói tiếng Việt thôi nên con không theo kịp bài… Bây giờ, học với cô giáo có nói tiếng Nhật con thấy dễ hiểu bài hơn. Khi quen rồi con muốn sẽ nói chuyện với cô hoàn toàn bằng tiếng Việt".

Từ kinh nghiệm thực tế, ThS Phạm Phi Hải Yến đề xuất sáu nguyên tắc vận dụng translanguaging trong lớp học tiếng Việt di sản ở Nhật Bản: Dùng tiếng Nhật để giải thích khái niệm trừu tượng hoặc ngữ pháp phức tạp; so sánh đối chiếu tiếng Việt - Nhật để người học ý thức rõ sự khác biệt và tránh lỗi giao thoa; khuyến khích học sinh sử dụng đan xen hai ngôn ngữ trong các hoạt động sáng tạo; sử dụng tiếng Nhật trong quản lý lớp học để trẻ nắm bắt yêu cầu nhanh hơn; phát triển tài liệu học song ngữ nhằm hỗ trợ trẻ và phụ huynh trong quá trình ôn luyện; kết nối gia đình - cộng đồng bằng song ngữ để cả phụ huynh người Nhật cũng theo dõi và hỗ trợ được con.

ThS Phạm Phi Hải Yến nhấn mạnh sử dụng tiếng Nhật không có nghĩa là giảm mục tiêu học tiếng Việt. Translanguaging chỉ là con đường hai chiều để học sinh hiểu bài nhanh hơn và tự tin hơn, đồng thời cần giải thích rõ cho phụ huynh để tránh tâm lý lo lắng về việc "giảm thời lượng tắm tiếng Việt".

Giữ tiếng Việt cho trẻ gốc Việt tại Nhật Bản không chỉ nằm ở nỗ lực của từng gia đình, mà ở một cách tiếp cận đồng bộ: chương trình phù hợp, giáo viên hiểu đặc thù ngôn ngữ di sản và sự hỗ trợ từ cộng đồng. Khi các mắt xích này được kết nối, tiếng Việt sẽ hiện diện trong đời sống của trẻ một cách tự nhiên và bền vững.

Từ Chartres (Pháp) dạy con nói tiếng quê nhà Từ Chartres (Pháp) dạy con nói tiếng quê nhà
"Lớp học" tiếng Việt trong căn nhà nhỏ ở Yamagata

Phan Anh

Đường dẫn bài viết: https://thoidai.com.vn/sang-kien-de-xuat-nham-giu-gin-tieng-me-than-thuong-cho-tre-goc-viet-tai-nhat-218214.html

In bài viết