11:45 | 05/12/2025
Tạp chí Thời đại xin trân trọng đăng tải bài viết "Thế nước và lòng dân trong giai đoạn phát triển mới của đất nước" của TS. Nguyễn Minh Chung - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương.
Phần một: KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ QUỐC GIA VÀ NGUỒN LỰC TỪ LÒNG DÂN
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn biết kết hợp sức mạnh của “thế nước” và “lòng dân” để vượt qua muôn vàn thử thách, biến nguy thành cơ, biến yếu thành mạnh. Hai khái niệm này không chỉ là phạm trù lịch sử – văn hóa, mà còn là nền tảng của triết lý phát triển quốc gia trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong hiện thực phát triển hiện đại của đất nước. Khi thế nước vững chãi, lòng dân quy tụ thì sức mạnh quốc gia được nhân lên gấp bội; ngược lại, khi lòng dân phân tán, niềm tin suy giảm, thế nước khó có thể đứng vững trước những biến động của thời cuộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “thế nước” là tập hợp sức mạnh tổng hợp của quốc gia: vị thế chính trị, tiềm lực kinh tế, văn hóa, quốc phòng – an ninh, cùng uy tín và tầm ảnh hưởng quốc tế. “Thế nước” không phải là khái niệm tĩnh mà luôn vận động theo dòng chảy lịch sử, phản ánh khả năng thích ứng của dân tộc trước các biến đổi của thời đại.
Còn “lòng dân” là sức mạnh nội sinh vô cùng to lớn – là niềm tin, ý chí, sự gắn bó của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ và với con đường phát triển của dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, coi lòng dân là gốc rễ của mọi thắng lợi. Đối với Người, sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc luôn bắt nguồn từ Nhân dân; muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, trước hết phải giữ được lòng dân, nắm được dân tình, chăm lo đời sống Nhân dân và dựa vào Nhân dân để kiến tạo tương lai.
Trong bối cảnh phát triển hiện đại, hai khái niệm này càng mang ý nghĩa sâu sắc hơn. “Thế nước” không chỉ thể hiện bằng GDP, chỉ số xếp hạng quốc tế hay sức mạnh quân sự, mà còn bằng năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng hội nhập, chất lượng thể chế và mức độ lan tỏa giá trị của Việt Nam trên trường quốc tế. “Lòng dân” cũng được mở rộng trong không gian số, gắn với quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia quản trị xã hội, và yêu cầu minh bạch – hiệu quả của bộ máy chính quyền.
![]() |
| Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Ảnh: Báo Chính phủ). |
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, “thế nước vững – lòng dân yên” luôn là yếu tố nền tảng quyết định sức mạnh quốc gia. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính lý luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là quy luật đã được kiểm nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử Việt Nam.
Thứ nhất, “Thế nước vững” – nền tảng bảo đảm cho quốc gia đứng vững trước biến động lịch sử. Thế nước vững thể hiện ở tiềm lực quốc gia: kinh tế ổn định, chính trị vững chắc, bộ máy lãnh đạo thống nhất, pháp luật nghiêm minh, ngoại giao khôn khéo và quốc phòng – an ninh đủ mạnh. Khi thế nước mạnh, quốc gia có vị thế chiến lược, có khả năng tự chủ trước các biến động quốc tế và thu hút được nguồn lực từ bên ngoài.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh:
Thời Lý – Trần, Việt Nam xây dựng được một triều đại ổn định, an dân, mở rộng văn hóa – giáo dục, phát triển nông nghiệp và thủy lợi, từ đó hình thành một “thế nước vững vàng”. Chính nhờ nền tảng đó, ba lần quân dân Đại Việt đánh bại đội quân Nguyên – Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Nhà Trần nhiều lần nhấn mạnh: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”, cho thấy thế nước mạnh chính là kết tinh của lòng dân yên.
Thời Lê Thánh Tông, sau khi thống nhất đất nước, triều đình tiến hành cải cách hành chính, luật pháp, khuyến nông, mở mang bờ cõi, đào tạo nhân tài. Nền thịnh trị Hồng Đức là minh chứng rõ ràng cho một thế nước mạnh giúp đất nước ổn định, văn hóa phát triển và quốc gia tự tin trong quan hệ với các nước lớn.
Giai đoạn 1986–2000, khi Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, ổn định kinh tế vĩ mô, mở cửa hội nhập, Việt Nam xây dựng được một thế nước mới: kinh tế tăng trưởng cao, vị thế quốc tế cải thiện rõ rệt, trở thành thành viên ASEAN và ký hiệp định thương mại quan trọng với Hoa Kỳ (2000). Đây là nền tảng để đất nước bước vào thời kỳ phát triển sâu rộng hơn trong thế kỷ XXI.
Thứ hai, “Lòng dân yên” – nguồn lực nội sinh, bảo đảm sự ổn định và sức mạnh bền vững. Lòng dân yên là khi Nhân dân tin vào Đảng, đồng thuận với đường lối của Nhà nước, an tâm với đời sống và sẵn sàng đóng góp vào sự nghiệp chung. Lòng dân là sức mạnh mềm nhưng mang giá trị quyết định, tạo ra tính chính danh, tính đồng thuận và động lực tinh thần cho mọi quyết sách, mọi chương trình phát triển.
Lịch sử Việt Nam cho thấy:
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427) thắng lợi không chỉ nhờ tài thao lược của Lê Lợi và Nguyễn Trãi mà vì nghĩa quân “được lòng dân”, đi đến đâu “quân lính không phạm của dân một mảy may”, từ đó lòng dân quy tụ, tạo thành sức mạnh áp đảo để đánh bại quân Minh.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là biểu tượng tuyệt đối của sức mạnh lòng dân: hàng chục vạn dân công hỏa tuyến, hàng nghìn tấn lương thực, đạn dược được vận chuyển bằng gánh, bằng xe đạp thồ qua rừng núi hiểm trở. Lòng dân yên – lòng dân theo kháng chiến – đã làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 thành công trong thời gian rất ngắn, một phần quan trọng nhờ lực lượng chính trị rộng lớn trong lòng dân, phong trào đô thị, các cơ sở cách mạng hỗ trợ mạnh mẽ cho tiến công quân sự.
Thời kỳ chống dịch COVID-19, Việt Nam kiểm soát hiệu quả dịch bệnh trong giai đoạn đầu là nhờ lòng dân đồng thuận, tin tưởng vào chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, chấp hành nghiêm các biện pháp phòng dịch. Lòng dân yên tạo ra sự đoàn kết xã hội, giúp đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn chưa từng có.
Thứ ba, sức mạnh tổng hợp khi thế nước vững và lòng dân yên được kết hợp. Khi thế nước được nâng cao và lòng dân được củng cố, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc – vốn là truyền thống quý báu của dân tộc – sẽ trở thành lực đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển:
Trong xây dựng đất nước, đó là nền tảng để thu hút đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, tạo môi trường ổn định cho các chương trình cải cách thể chế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Trong bảo vệ Tổ quốc, đó là sức mạnh khiến kẻ thù phải dè chừng, tạo thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, giúp đất nước xử lý khôn khéo các tranh chấp và mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Trong đối ngoại, quốc gia có vị thế “tự tin – bình đẳng – hợp tác”, dễ dàng tranh thủ được sự ủng hộ của đối tác quốc tế, vừa giữ được độc lập, vừa mở rộng không gian phát triển.
Ngược lại, khi lòng dân phân tán hoặc niềm tin suy giảm, thế nước dễ tổn thương. Lịch sử cũng cho thấy bài học ngược lại:
Khi triều đình nhà Hồ không tạo được lòng dân, các cải cách không được xã hội ủng hộ, nội bộ chia rẽ, nên dù có quân đội mạnh, thành lũy kiên cố vẫn thất bại trước quân Minh năm 1407.
Cuối thời Lê – Trịnh hoặc cuối thời Nguyễn, lòng dân ly tán, đời sống khó khăn, mâu thuẫn nội bộ gia tăng, khiến quốc gia suy yếu nghiêm trọng và dễ dàng bị các thế lực ngoại xâm lợi dụng.
Trong thời đại ngày nay, nếu lòng dân không yên, nếu an sinh xã hội không được bảo đảm, nếu tin giả và thông tin xấu độc chia rẽ cộng đồng mà không được xử lý kịp thời, thì thế nước dễ bị xói mòn, tạo ra những điểm dễ tổn thương trước các cú sốc kinh tế – xã hội và các âm mưu chống phá từ bên ngoài.
Bước vào giai đoạn phát triển mới, với tầm nhìn đến năm 2030, 2045, thế nước của chúng ta đang lên, lòng dân đang hướng về khát vọng phồn vinh, hạnh phúc. Tuy nhiên, bối cảnh trong nước và quốc tế ngày càng thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp và khó lường. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn, đòi hỏi chúng ta phải vừa giữ vững thành quả, vừa chủ động thích ứng, đổi mới sáng tạo, nhất là trong việc phát huy đồng thời sức mạnh của thế nước và lòng dân.
Trước hết, yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu trở nên cấp bách. Nếu trước đây, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ và mở rộng vốn đầu tư, thì nay, mô hình này bộc lộ rõ giới hạn. Để không tụt hậu, Việt Nam phải chuyển mạnh sang tăng trưởng dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Điều này không chỉ đòi hỏi nguồn lực tài chính, thể chế phù hợp, mà còn đòi hỏi sự đồng thuận, vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn dân, vì mọi cải cách sâu rộng đều tác động trực tiếp đến đời sống nhân dân từ việc làm, thu nhập, cấu trúc xã hội và tâm thế của người dân.
Hai là, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và biến động địa – chính trị, địa – kinh tế diễn biến hết sức phức tạp. Việt Nam đứng trong vùng giao thoa lợi ích của nhiều trung tâm quyền lực, nên mọi tính toán về thương mại, đầu tư, quốc phòng, an ninh đều gắn chặt với yêu cầu giữ vững độc lập, tự chủ, không bị cuốn vào vòng xoáy xung đột, đối đầu. Để làm được điều đó, bên cạnh bản lĩnh đối ngoại khôn khéo, mềm dẻo mà kiên định, chúng ta cần một thế nước đủ mạnh về nội lực, một lòng dân đủ vững về niềm tin và ý chí, sẵn sàng chia sẻ, đồng hành với các quyết sách chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Ba là, chuyển đổi số và kinh tế số đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn dự kiến, tác động đến mọi lĩnh vực: từ sự lãnh đạo của Đảng, quản trị của Nhà nước, sản xuất – kinh doanh, giáo dục, y tế, đến đời sống hàng ngày của từng người dân. Điều này đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức quản trị quốc gia, thay đổi cách Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Mặt trận, đoàn thể vận động Nhân dân. Cùng với đó, phải coi trọng việc bảo vệ chủ quyền số, an ninh mạng, an toàn thông tin, bởi chỉ một sự cố lớn trên không gian mạng cũng có thể gây tác động dây chuyền đến kinh tế, an ninh, trật tự xã hội và niềm tin của Nhân dân. Nói cách khác, giữ vững “thế nước” hôm nay không thể tách rời năng lực quản trị trên không gian số, và “lòng dân yên” cũng phụ thuộc rất lớn vào mức độ an toàn, minh bạch, lành mạnh của môi trường số.
Bốn là, biến đổi khí hậu và các thách thức an ninh phi truyền thống – từ an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước đến thiên tai cực đoan, dịch bệnh… – đang tác động ngày càng mạnh mẽ và trực tiếp đến đời sống Nhân dân. Những hiện tượng thời tiết cực đoan, xâm nhập mặn, sạt lở, bão lũ bất thường có thể xóa sạch thành quả nhiều năm của người dân chỉ trong thời gian rất ngắn. Điều đó buộc chúng ta phải tái cấu trúc không gian phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng thích ứng, chuyển đổi mô hình sản xuất, tiêu dùng theo hướng xanh, bền vững. Ở đây, bài toán “thế nước – lòng dân” thể hiện rất rõ: nếu chính sách ứng phó không kịp thời, không công bằng, không bảo đảm sinh kế, rất dễ nảy sinh tâm trạng bất an, bức xúc; ngược lại, nếu người dân nhìn thấy Nhà nước quan tâm, chia sẻ, hỗ trợ thiết thực, họ sẽ tin tưởng, đồng hành và chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi.
Năm là, diễn biến hòa bình, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và sự gia tăng của thông tin xấu độc trên không gian mạng đang trở thành thách thức trực diện đối với trận địa tư tưởng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong quản lý, những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, những yếu kém trong thực thi chính sách để xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ đội ngũ cán bộ, chia rẽ Nhân dân với Đảng và Nhà nước. Điều đó đặt ra yêu cầu phải có chiến lược chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong công tác tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, công tác dân vận trong kỷ nguyên số; phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, giữa cung cấp thông tin chính thống, kịp thời với việc xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng mạng xã hội để phá hoại khối đoàn kết, gây rối loạn xã hội.
Trong tổng thể bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là hai chiều song song và gắn bó chặt chẽ: một mặt, phải tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, củng cố, nâng tầm thế nước ngày càng vững mạnh, tự cường; mặt khác, phải nắm chắc, giữ vững và không ngừng bồi đắp lòng dân, chăm lo lợi ích chính đáng của Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Chỉ khi thế nước đủ mạnh, lòng dân thật sự yên, chúng ta mới có thể biến thách thức thành cơ hội, tận dụng được những xu thế lớn của thời đại để bứt phá vươn lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
| "Việt Nam đã giành được độc lập và giờ đây - dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - người dân đang nắm vận mệnh của chính mình trong giai đoạn mới, giai đoạn vươn mình". |
| Tại Hội nghị tổng kết các hoạt động kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (A80) diễn ra ngày 09/10 tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Trung ương Kỷ niệm các ngày lễ lớn đánh giá: các hoạt động kỷ niệm đã được tổ chức trang trọng, đúng tầm vóc, an toàn tuyệt đối; không chỉ khơi dậy niềm tự hào, khát vọng phát triển trong nhân dân, mà còn lan tỏa mạnh mẽ thông điệp về khát vọng độc lập, hòa bình, hữu nghị của Việt Nam đến bạn bè quốc tế. |
TS. Nguyễn Minh Chung, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương