13:23 | 03/12/2025
TS. Đỗ Phương Thảo, Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Văn hóa là nội dung cốt lõi trong dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài Mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa là một nguyên lý đã được khẳng định rộng rãi trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Trong giáo dục ngoại ngữ, nhiều mô hình hiện đại đều nhấn mạnh bốn hoạt động gắn bó chặt chẽ: học ngôn ngữ, nhận thức ngôn ngữ, nhận thức văn hóa và trải nghiệm văn hóa. Trên cơ sở đó, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài cần đặt việc tích hợp yếu tố văn hóa Việt Nam như một thành tố không thể tách rời của bài học. Kiến thức ngôn ngữ chỉ thực sự có ý nghĩa khi phản ánh được những đặc trưng văn hóa hàm chứa trong hệ thống lời nói, cách ứng xử và phong tục của người Việt. Qua đó không chỉ nâng cao hiệu quả học tiếng Việt mà còn góp phần bảo tồn, nuôi dưỡng bản sắc văn hóa dân tộc trong môi trường đa văn hóa toàn cầu. Một quy trình bài học hiệu quả có thể triển khai theo cấu trúc “Hồi tưởng - Tiếp thu - Củng cố”. Phần dẫn chuyện gợi mở chủ đề văn hóa và đặt học sinh vào một tình huống quen thuộc. Ở bước hồi tưởng, học sinh được khơi gợi ký ức, trải nghiệm hoặc hiểu biết nền tảng về Việt Nam. Sang bước tiếp thu, bài học bổ sung kiến thức văn hóa mới qua câu chuyện, hình ảnh hoặc hoạt động tương tác. Cuối cùng, phần củng cố giúp hệ thống hóa nội dung và tạo liên hệ giữa kiến thức mới với trải nghiệm cá nhân của người học.
So sánh liên văn hóa cũng là phương pháp hữu ích. Việc đối chiếu các chủ đề quen thuộc như món ăn, lễ hội, lịch sử, trang phục hay sinh hoạt học đường giữa Việt Nam và quốc gia sở tại giúp người học nhận diện rõ nét hơn bản sắc Việt. Phương pháp này kích thích quan sát, tạo hiểu biết sâu hơn về sự đa dạng văn hóa, đồng thời hình thành cảm xúc gắn bó với nguồn cội. Tuy nhiên, khi lồng ghép văn hóa cần chú ý tính vừa sức và phù hợp với trình độ người học. Những giá trị văn hóa đơn giản, dễ quan sát như cách chào hỏi hay một số quy tắc giao tiếp có thể được tiếp thu nhanh chóng, trong khi các giá trị trừu tượng, triết lý dân gian, ca dao - tục ngữ đòi hỏi mức độ thẩm thấu sâu hơn. Việc đưa những nội dung quá khó, hoặc không nằm trong vốn từ cơ bản vào giai đoạn đầu chỉ làm tăng cảm giác quá tải, khiến người học e ngại thay vì yêu thích văn hóa Việt. Lựa chọn nội dung phải có kế hoạch, lộ trình và liều lượng phù hợp. Ngoài ra, người học Việt Nam ở nước ngoài luôn chịu ảnh hưởng của hệ giá trị văn hóa nơi họ sinh ra và lớn lên. Khi tiếp xúc với tiếng Việt, họ tự nhiên so sánh cách ứng xử, cách nghĩ giữa hai nền văn hóa. Ở giai đoạn đầu, so sánh - đối chiếu nên được xem là phương pháp trọng tâm để làm rõ những điểm khác biệt và tương đồng. Ở các giai đoạn tiếp theo, người học có thể phát triển khả năng khái quát, tổng hợp, từ đó nhận diện những nét văn hóa Việt mang tính hệ thống. |
Bà Vũ Thúy Nga, Tiến sĩ Ngôn ngữ học đối chiếu, Trường Đại học Đại Nam: Truyện cổ tích - cầu nối tiếp nhận tiếng mẹ đẻ một cách tự nhiên Việc dạy tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam sinh sống ở nước ngoài luôn là một quá trình phức tạp, đòi hỏi nhiều nỗ lực từ gia đình lẫn nhà trường. Ở môi trường mà trẻ tiếp xúc gần như hoàn toàn bằng ngôn ngữ sở tại, thời lượng nghe, nói tiếng Việt trong ngày thường rất hạn chế. Trong bối cảnh đó, truyện cổ tích Việt Nam nổi lên như một chất liệu văn hóa - ngôn ngữ giàu giá trị, giúp trẻ tiếp nhận tiếng mẹ đẻ một cách tự nhiên và cảm xúc hơn. Truyện cổ tích là bộ phận đặc sắc của văn học dân gian Việt Nam, phản ánh đời sống, phong tục, tín ngưỡng và hệ giá trị đạo đức của người Việt qua nhiều thế hệ. Những câu chuyện quen thuộc như Tấm Cám, Cây Khế, Thánh Gióng... không chỉ hấp dẫn về nội dung mà còn chứa đựng các bài học nhân văn về cái thiện - cái ác, lòng dũng cảm, tinh thần bảo vệ điều tốt đẹp, hay khát vọng giữ gìn truyền thống dân tộc…
Ngôn ngữ trong truyện cổ tích thường gần gũi, phù hợp với tâm lý tiếp nhận của trẻ nhỏ, do đó rất thuận lợi để trẻ làm quen với ngữ điệu, âm thanh và vốn từ tiếng Việt. Ngày nay, nhiều truyện đã được xuất bản dưới dạng truyện tranh minh họa sinh động hoặc video hoạt hình nên càng dễ tiếp cận với các em nhỏ ở nước ngoài. Với trẻ chưa biết đọc, việc cha mẹ kể chuyện bằng tiếng Việt vào những thời điểm rảnh trong ngày là cách hiệu quả để xây dựng phản xạ nghe - hiểu, đồng thời tạo cảm xúc tích cực gắn với tiếng mẹ đẻ. Khi trẻ bước vào độ tuổi đi học, truyện cổ tích có thể được tích hợp vào các phương pháp dạy tiếng Việt như luyện đọc, luyện viết, tóm tắt truyện, trình bày cảm nghĩ hoặc ghi chép lại những từ ngữ mà trẻ quan tâm, có sự hướng dẫn của cha mẹ hoặc giáo viên. Quá trình duy trì và phát triển tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam ở nước ngoài cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và cộng đồng. Bên cạnh nỗ lực cá nhân của cha mẹ, việc thúc đẩy các sáng kiến hỗ trợ từ tổ chức và hội đoàn có ý nghĩa quan trọng như: Dịch và xuất bản truyện cổ tích song ngữ để trẻ vừa học tiếng Việt vừa đối chiếu với ngôn ngữ sở tại; Tổ chức các hoạt động đóng vai nhân vật cổ tích, giúp trẻ vận dụng một số câu tiếng Việt vào đời sống; Sáng tạo các cuộc thi cho trẻ thu âm kể lại câu chuyện hoặc nói về nhân vật yêu thích... |
TS. Phạm Văn Luân, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh: Khai thác giá trị văn hóa Lục Vân Tiên nuôi dưỡng tiếng Việt trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài Truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam có sức lan tỏa rộng lớn trên phạm vi quốc tế, được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đông đảo độc giả nước ngoài biết đến. Với các bản dịch sang tiếng Pháp, Ukraine, Nhật, Anh, Hàn Quốc... tác phẩm đã tạo nên một “trường văn hóa” đặc biệt, nơi ngôn ngữ - văn học - văn hóa Việt Nam có thể được tiếp cận, giảng dạy và lan tỏa một cách sinh động đến cộng đồng quốc tế cũng như cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Dưới góc nhìn văn hóa học và giáo dục ngôn ngữ, Lục Vân Tiên mang đầy đủ những giá trị cần thiết để trở thành chất liệu hỗ trợ dạy và học tiếng Việt cho thế hệ trẻ xa quê. Lục Vân Tiên có cấu trúc chặt chẽ, giàu tính giáo dục, được xây dựng trong 2.084 câu thơ lục bát với hệ thống nhân vật - sự kiện - bối cảnh được tổ chức theo logic của vòng đời con người. Những giá trị đạo lý về gia đình, lòng nhân ái, sự thủy chung, “tu nhân tích đức”, tinh thần hướng thiện hay cách nhìn về cái thiện - cái ác được thể hiện xuyên suốt qua nhân vật và cốt truyện. Những bài học này vẫn còn nguyên giá trị đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, giúp thế hệ trẻ thấu hiểu chuẩn mực văn hóa Việt Nam qua những câu chuyện gần gũi nhưng sâu sắc.
Các yếu tố kết cấu, nội dung và ngôn ngữ của tác phẩm cũng phù hợp để ứng dụng trong các hoạt động dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở các cộng đồng khác nhau. Nói thơ Vân Tiên - loại hình diễn xướng dân gian đang được đề nghị xây dựng hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể là minh chứng rõ ràng cho khả năng truyền dạy tiếng Việt bằng hình thức bình dân, tự nhiên, khuyến khích học tập suốt đời và học mọi lúc, mọi nơi. Đây là một mô hình giàu tính tham khảo cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài trong việc xây dựng môi trường học tiếng Việt gắn với văn hóa. Trên nền tảng đó, nhiều hoạt động hợp tác văn hóa - giáo dục có thể được triển khai để hỗ trợ việc duy trì tiếng Việt trong cộng đồng kiều bào như: Tiếp tục chuyển ngữ bản Lục Vân Tiên tiếng Việt mới nhất có sự thẩm định và đóng góp của hậu duệ Nguyễn Đình Chiểu và các chuyên gia hàng đầu. Tổ chức tọa đàm, diễn đàn, “trò chơi chữ nghĩa”, thi kể - thi nói thơ Vân Tiên, giúp sinh viên và thanh thiếu niên tiếp cận tác phẩm một cách tự nhiên và hấp dẫn. Phát triển các cuộc thi viết, thi dịch, bình chọn và giao lưu học thuật, xoay quanh các chủ đề giá trị của tác phẩm như “Trung - Trinh - Tiết - Nghĩa”. |
| Với sự quan tâm, ưu tiên của Đảng và Nhà nước thể hiện qua các chính sách, đề án thiết thực; sự vào cuộc của các bộ, ban, ngành, hội đoàn; sự hưởng ứng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, phong trào dạy và học tiếng Việt đã, đang tiếp tục lan tỏa khắp năm châu. Hoạt động này phá vỡ mọi rào cản ngôn ngữ tiếp động lực để kiều bào thế hệ thứ hai, thứ ba gìn giữ và phát huy ngôn ngữ mẹ đẻ, bảo tồn bản sắc dân tộc. |
| Tại Thiền viện Trúc Lâm (Ambakote, Kandy, Sri Lanka), học viên đủ mọi lứa tuổi tập trung trong không gian thanh tịnh của chùa, học tiếng Việt qua các hoạt động đa dạng: trò chơi, bài hát, trải nghiệm văn hóa truyền thống Việt Nam. Những buổi học này vừa giúp học viên làm quen với ngôn ngữ vừa xây dựng cộng đồng gắn kết, hòa hợp. Mô hình này đã phát triển bền vững và trở thành điểm sáng trong giáo dục cộng đồng, góp phần tăng cường giao lưu văn hóa Việt Nam - Sri Lanka. |
Mai Anh