09:03 | 06/12/2025
Trong báo cáo trung tâm, ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng Ozon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, việc thúc đẩy kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn đang trở thành một trong những ưu tiên chiến lược của Việt Nam trong tiến trình phát triển bền vững.
Ông Lương Quang Huy nhấn mạnh, Việt Nam đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, coi đây là định hướng lâu dài và xuyên suốt trong quá trình hoạch định chính sách phát triển. Việt Nam cũng tham gia sáng kiến giảm phát thải khí mê-tan toàn cầu, hướng tới mục tiêu cắt giảm 30% lượng phát thải khí này so với năm 2020.
Theo ông, việc thực hiện các cam kết này không chỉ là trách nhiệm quốc tế mà còn là cơ hội để Việt Nam đẩy nhanh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thúc đẩy sản xuất sạch, công nghệ xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn. Đây là hướng đi tất yếu để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ thị trường quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh xu hướng “xanh hóa” chuỗi cung ứng đang lan rộng.
Kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tận dụng nguồn lực hiệu quả hơn và giảm thiểu tác động môi trường. Điều này đem lại lợi ích thiết thực cho cả doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế.
![]() |
| Phiên thảo luận thứ nhất đánh giá về thực trạng, kết quả và những mô hình tốt có tiếp tục nhân rộng trong thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường bền vững. (Ảnh: Đinh Hòa) |
Theo báo cáo tại phiên thảo luận thứ nhất, trong 5 năm qua, các tổ chức PCPNN đã triển khai nhiều dự án thúc đẩy kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Từ đó, 5 nhóm kết quả nổi bật đã được ghi nhận: Phát triển nông nghiệp bền vững và sinh kế xanh; thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn và giảm thiểu ô nhiễm; quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học; tăng cường năng lực và hệ thống theo dõi, báo cáo, thẩm tra (MRV) phục vụ quản lý phát thải; thúc đẩy hợp tác công - tư - cộng đồng (PPP). Các kết quả này không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho địa phương trong quá trình triển khai mà còn tạo nền tảng quan trọng để các ngành hàng nông nghiệp, lâm nghiệp chuyển đổi theo hướng xanh và tuần hoàn một cách bền vững.
Ông Lê Hà Luân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp cho biết, dù Đồng Tháp là một trong những địa phương đi đầu trong chuyển đổi nông nghiệp xanh, quá trình này vẫn đối mặt nhiều thách thức. Theo ông, rào cản lớn nhất là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất đồng bộ, đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thị trường tiêu dùng xanh trong nước còn hạn chế, khiến người nông dân chưa nhận được mức giá tương xứng với chi phí tăng thêm khi sản xuất theo quy trình xanh.
Để nhân rộng mô hình hiệu quả, ông Lê Hà Luân nhấn mạnh yêu cầu về sự đồng lòng của tất cả các bên trong chuỗi giá trị - từ doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân đến chính quyền. Doanh nghiệp cần truyền tải tín hiệu thị trường và tạo hiệu ứng tiêu dùng xanh; hợp tác xã đóng vai trò tổ chức sản xuất quy mô lớn; chính quyền địa phương và Trung ương hoàn thiện chính sách về tích tụ ruộng đất, tín dụng xanh và thị trường tín chỉ carbon.
Trao đổi tại tọa đàm, ông Nguyễn Quang Tân, Trưởng đại diện ICRAF tại Việt Nam cho rằng cần tập trung giải quyết ba nhóm vấn đề then chốt: Việc kết nối giữa các mô hình thử nghiệm và chính sách quốc gia vẫn còn khoảng trống khi nhiều mô hình hiệu quả ở cấp thôn, xã chưa được tích hợp vào chương trình mục tiêu hay chiến lược ngành do thiếu cơ chế vận hành thống nhất hoặc chưa có bằng chứng ở quy mô lớn; cần đẩy mạnh cơ chế hợp tác công - tư, bởi khi doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào các mô hình nông nghiệp bền vững, thị trường sẽ trở thành động lực quan trọng giúp mô hình được mở rộng một cách tự nhiên và bền vững; tầm quan trọng của hệ thống dữ liệu và MRV trong phát triển các mô hình nông nghiệp carbon thấp.
Ông Bùi Lê Vinh, Trưởng phòng Biến đổi khí hậu, Viện Nghiên cứu Tăng trưởng xanh, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng một trong những rào cản lớn hiện nay là sự thiếu thống nhất về tiêu chuẩn và công nghệ xanh giữa các chương trình và dự án. Mỗi tổ chức quốc tế thường có phương pháp và bộ tiêu chuẩn riêng, dẫn tới khó khăn trong việc tổng hợp dữ liệu hoặc đưa ra khuyến nghị chính sách ở quy mô quốc gia. Theo đó, ông Bùi Lê Vinh nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp xanh, đặc biệt trong bối cảnh chi phí đầu tư ban đầu thường cao; nâng cao năng lực cho cán bộ địa phương nhằm đảm bảo kỹ thuật được triển khai thống nhất và đúng quy trình; tăng cường nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt về các mô hình giảm phát thải phù hợp với điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội đặc thù của từng vùng.
![]() |
| Phiên thảo luận thứ hai tập trung vào dự báo tình hình, xu hướng phát triển và những khuyến nghị trong thời gian tới. (Ảnh: Đinh Hòa) |
Tại phiên thảo luận thứ hai, ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Phát triển Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết ngành nông nghiệp định hướng theo hai mục tiêu: duy trì tốc độ tăng trưởng và đảm bảo phát triển bền vững. Dự kiến giai đoạn 2026-2030, các chính sách chủ đạo đều đặt trọng tâm vào phát triển “xanh”, như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long hay Kế hoạch giảm phát thải trong ngành trồng trọt.
Ông Trần Công Thắng nhấn mạnh, việc tái cơ cấu ngành, chuyển đổi cây trồng giá trị cao, thúc đẩy khoa học - công nghệ, xử lý phụ phẩm nông nghiệp và phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ là những trụ cột quan trọng. Để triển khai hiệu quả, sự tham gia đồng bộ của doanh nghiệp, người dân và chính quyền các cấp là yếu tố then chốt.
Đại diện khu vực tư nhân, bà Phạm Thị Trúc Thanh, Giám đốc Phát triển bền vững của Heineken Việt Nam cho biết doanh nghiệp luôn xác định phát triển bền vững là một phần trong chiến lược kinh doanh. Theo bà, doanh nghiệp đã và đang triển khai nhiều mô hình sử dụng năng lượng tái tạo, tiết kiệm nước, tái chế bao bì và thúc đẩy chuỗi cung ứng xanh, đồng thời mong muốn tiếp tục mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế và địa phương để gia tăng hiệu quả.
Tuy nhiên, bà Phạm Thị Trúc Thanh cũng nhấn mạnh, các doanh nghiệp cần một khung chính sách ổn định và nhất quán để có thể đưa ra quyết định đầu tư dài hạn. Những tiêu chuẩn môi trường rõ ràng, quy trình chứng nhận minh bạch và các cơ chế khuyến khích phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong việc mở rộng các mô hình sản xuất xanh, góp phần vào nỗ lực chung của Chính phủ trong giảm phát thải và thực hiện các cam kết quốc tế.
Đại diện khối tổ chức phi chính phủ, bà Hà Thị Quỳnh Nga, Giám đốc Phát triển kinh doanh của CARE International tại Việt Nam cho biết CARE đã tham gia nhiều chương trình liên quan đến sinh kế, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm phát thải và hỗ trợ phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp. Bà đánh giá cao việc Việt Nam ban hành các chính sách rõ ràng về phát thải thấp và kinh tế tuần hoàn, tạo điều kiện để các tổ chức quốc tế mở rộng mô hình và phối hợp cùng địa phương.
Theo bà, giai đoạn tới cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động hỗ trợ sinh kế tại cơ sở, đặc biệt ở các cộng đồng dễ bị tổn thương. Các tổ chức quốc tế mong muốn tiếp tục nhận được sự đồng hành của các bộ, ban, ngành để tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tài chính, nhất là tài chính xanh, giúp nhân rộng các mô hình nông nghiệp bền vững trên thực tế.
| Ngày 26/8, Hội thảo với chủ đề “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp của thanh niên trong nền kinh tế xanh và kinh tế số tại thành phố Cần Thơ” được tổ chức tại thành phố Cần Thơ, với sự phối hợp của nhiều đơn vị trong nước và quốc tế. |
| Vừa qua, tại thành phố Cần Thơ, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Cần Thơ và Hội hữu nghị Việt - Đức thành phố phối hợp với Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF/ Đức), Trung tâm Vì sự phát triển của phụ nữ vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tổ chức hội thảo về “Nâng cao quyền năng của phụ nữ trong phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, chuyển đổi số và khởi sự doanh nghiệp”. |
Thu Phượng