14:15 | 05/07/2018
Liên quan đến việc Chủ tịch UBND TP.Hà Nội Nguyễn Đức Chung vừa đề xuất Chính phủ cho thí điểm thu giá dịch vụ đối với việc cung cấp, chia sẻ các dữ liệu dân cư đối với các ngành như: Ngân hàng, công chứng và một số lĩnh vực khác. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, luật sư Nguyễn Trung Tiệp, Công ty Luật TNHH Dragon, Đoàn Luật sư TP.Hà Nội nhận định dưới góc độ của chuyên gia pháp luật rằng: Ý kiến trên của Chủ tịch UBND TP.Hà Nội là khả thi và có thể thực hiện được bởi những lý do sau:
Chiếu theo quy định của pháp luật, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là tập hợp thông tin cơ bản về công dân Việt Nam được xây dựng, cập nhật, duy trì để quản lý, khai thác và sử dụng thông qua các phương tiện điện tử.
![]() |
Ảnh chỉ có tính chất minh họa. Ảnh internet.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được xây dựng thống nhất trên toàn quốc để dùng chung cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm cung cấp chính xác, kịp thời thông tin cơ bản về dân cư phục vụ công tác quản lý Nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu chính đáng của công dân.
Về việc chia sẻ dữ liệu dân cư, tại Điều 10, Luật Căn cước công dân (2014) quy định về Quản lý, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư như sau:
“1. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là tài sản quốc gia, được Nhà nước bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là cơ sở dữ liệu dùng chung, do Bộ Công an quản lý.
2. Khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được thực hiện như sau:
a) Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
b) Công dân được khai thác thông tin của mình trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư”.
Nghị định 137/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân, tại Điều 11 - Sử dụng thông tin về công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nêu rõ:
“1. Việc sử dụng thông tin về công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phải bảo đảm bí mật nhà nước, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của công dân.
2. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội chỉ được sử dụng thông tin về công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao hoặc giải quyết thủ tục hành chính”.
Như vậy, luật sư Tiệp cho rằng, với quy định nêu trên thì UBND TP.Hà Nội là một cơ quan Nhà nước đương nhiên được khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để thực hiện việc phát triển kinh tế-xã hội và giải quyết thủ tục hành chính.
![]() |
Luật sư Nguyễn Trung Tiệp. Ảnh T.Y.
Tuy nhiên, theo luật Căn cước công dân hiện nay, việc xây dựng dữ liệu dân cư được giao cho Bộ Công an. Còn theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì việc tổ chức quản lý dân cư được giao cho Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì vậy, phải đề xuất kiến nghị đến Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ban ngành tháo gỡ các thủ tục hành chính về thuê các dịch vụ công nghệ thông tin.
Trên cơ sở đó, cho TP.Hà Nội được thí điểm thu giá dịch vụ đối với việc cung cấp, chia sẻ các dữ liệu dân cư đối với các ngành ngân hàng, công chứng và một số lĩnh vực khác là hoàn toàn có thể thực hiện được.
Liên quan đến việc này, một câu hỏi được gửi đến luật sư, dữ liệu dân cư có phải là bí mật riêng tư không? Luật sư Nguyễn Trung Tiệp cho biết: Tại Điều 4, Điều 5 Luật Căn cước công dân 2014 quy định về nguyên tắc quản lý căn cước công dân và quyền, nghĩa vụ của công dân như sau: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý, thuận tiện cho công dân”.
Tiếp đến, công dân có quyền: “Được bảo đảm bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, trừ trường hợp cung cấp thông tin, tài liệu theo luật định”
“Như vậy, với những căn cứ nêu trên thì dữ liệu dân cư không phải là bí mật riêng tư mà nó được xây dựng nhằm mục đích quản lý về những thông tin quản lý dân cư, thông tin cá nhân được pháp luật bảo hộ về quyền con người và quyền công dân, trên cơ sở bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, những bí mật cá nhân vẫn được đảm bảo. Do đó, việc UBND TP.Hà Nội cung cấp các thông tin trên chứng minh nhân dân, thẻ căn cước cho các tổ chức ngân hàng, công chứng… thực chất là chia sẻ thông tin trong chứng minh nhân dân chứ không phải là thông tin cá nhân”, luật sư Tiệp nêu quan điểm.
Mặt khác, tại Điều 10, Nghị định số 137/2015 quy định về Thủ tục khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cũng rất chặt chẽ. Cụ thể, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phải có văn bản yêu cầu gửi cơ quan quản lý và được sự cho phép thì các đơn vị liên quan mới được truy cập.
Hơn nữa, việc chia sẻ thông tin có phần mềm, hệ thống dữ liệu kiểm soát. Nguyên tắc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác, quản lý và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phải tuân thủ các quy định của pháp luật về cư trú, hộ tịch, quốc tịch, dân số, bảo vệ bí mật Nhà nước, bảo vệ thông tin đời tư cá nhân, công nghệ thông tin, giao dịch điện tử và các quy định pháp luật có liên quan.
“Bởi thế, người dân không phải lo ngại vì những thông tin cá nhân của mình bị tiết lộ, làm phiền. Do vậy, đề xuất như vậy là đúng luật và có lợi cho người dân, cho doanh nghiệp, cho ngành kinh tế và giảm được chi phí cho người dân”, trích lời luật sư Nguyễn Trung Tiệp.
Thường Yên