Liên thông xét nghiệm giúp tiết kiệm hàng trăm tỉ đồng mỗi năm
Liên thông xét nghiệm giúp nâng cao chất lượng chẩn đoán và kiểm soát lạm dụng xét nghiệm
Liên quan đến vấn đề này, PGS - TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế), cho hay liên thông xét nghiệm thực chất là việc cơ sở khám chữa bệnh này công nhận và có thể sử dụng kết quả xét nghiệm của cơ sở khám chữa bệnh khác trong một số trường hợp xét nghiệm đó có giá trị sử dụng trong một thời gian và trên cơ sở tình trạng người bệnh. Thực hiện được điều này có nghĩa là một số xét nghiệm sau khi đã có kết quả có thể được cơ sở khám chữa bệnh khác sử dụng để chẩn đoán, điều trị, theo dõi bệnh, giúp tiết kiệm chi phí thực hiện xét nghiệm trong một số trường hợp.
Xin ông cho biết lộ trình thực hiện liên thông xét nghiệm?
Lộ trình liên thông kết quả xét nghiệm đã được xác định trong Quyết định số 316/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tăng cường chất lượng xét nghiệm y học giai đoạn 2016 - 2025. Theo đó, trước 1.1.2018 sẽ liên thông kết quả xét nghiệm giữa các bệnh viện (BV) hạng đặc biệt và hạng 1, đến năm 2020 thực hiện liên thông xét nghiệm đối với các BV trong cùng tỉnh, thành và đến năm 2025 sẽ liên thông xét nghiệm ở tất cả các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc.
Trên thực tế có chuyện chất lượng xét nghiệm giữa các cơ sở điều trị và giữa các tuyến điều trị cũng có chênh lệch. Liên thông xét nghiệm này có thực hiện ở các BV tư không, thưa ông?
Chất lượng xét nghiệm giữa các cơ sở điều trị và giữa các tuyến điều trị hiện nay nhìn chung chưa đồng đều. Chất lượng xét nghiệm thường tốt hơn ở các BV tuyến T.Ư, tuyến tỉnh và còn hạn chế ở các BV tuyến dưới. Các BV tư nhân cũng phải tham gia liên thông và cũng được đánh giá chất lượng để thực hiện liên thông.
Hằng năm, chỉ tính riêng số lượt xét nghiệm của các BV đã có khoảng 250 triệu lượt xét nghiệm hóa sinh, hơn 200 triệu lượt xét nghiệm huyết học và khoảng 25 triệu lượt xét nghiệm vi sinh. Tỷ lệ tăng trưởng trong khối xét nghiệm trung bình khoảng 10% mỗi năm.
Theo đánh giá của chúng tôi, liên thông xét nghiệm mang lại nhiều lợi ích về chất lượng, tài chính cũng như giảm chờ đợi phiền hà. Khi xét nghiệm có độ tin cậy cao hơn, cơ sở khám chữa bệnh này có thể sử dụng kết quả xét nghiệm của cơ sở khám chữa bệnh khác, một số xét nghiệm không phải làm lại sẽ tránh được lãng phí. Chỉ cần giảm được 1% số xét nghiệm thì mỗi năm chỉ tính riêng số xét nghiệm không phải thực hiện tại các BV đã là khoảng 4,75 triệu lượt. Nếu tính trung bình mỗi xét nghiệm có giá 50.000 đồng thì chúng ta đã tiết kiệm được khoảng 237,5 tỉ đồng.
Hiện nay, máy móc xét nghiệm, hóa chất xét nghiệm của các BV được đầu tư khác nhau, nhân lực làm xét nghiệm trình độ khác nhau nên kết quả khó đồng đều. Với bệnh nhân nặng, bệnh khó, bác sĩ chỉ căn cứ vào kết quả xét nghiệm của BV bạn để chỉ định điều trị, nếu không may có rủi ro, biến cố thì sẽ quy trách nhiệm như thế nào?
Theo nguyên tắc, việc liên thông kết quả xét nghiệm chỉ áp dụng cho một số xét nghiệm có thể liên thông được, khi kết quả xét nghiệm đó có giá trị trong một thời gian nhất định. BV đó chỉ sử dụng và công nhận kết quả xét nghiệm của BV khác mà phòng xét nghiệm của BV khác đó có mức chất lượng tương đương hoặc cao hơn, BV xét nghiệm cho người bệnh là nơi chịu trách nhiệm về dịch vụ xét nghiệm do mình thực hiện. Như vậy, độ chính xác và độ tin cậy cũng sẽ tương đương hoặc cao hơn. Đặc biệt quan trọng là trong quá trình thực hiện, quyền chỉ định xét nghiệm vẫn do bác sĩ. Việc chỉ định xét nghiệm phải dựa trên tình trạng cụ thể của người bệnh chứ không liên thông một cách cứng nhắc. Do đó, tôi khẳng định, liên thông để tốt hơn cho chất lượng điều trị, kiểm soát lạm dụng chứ không phải nhằm mục đích cắt giảm xét nghiệm, ảnh hưởng đến người bệnh.
Cục có yêu cầu các BV phải ngoại kiểm (kiểm chuẩn xét nghiệm) đảm bảo chính xác cho xét nghiệm chẩn đoán, nhưng lâu nay hầu như chỉ siết BV công lập, các đơn vị tư nhân có thực hiện kiểm chuẩn không, thưa ông?
Kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm bao gồm nội kiểm và ngoại kiểm. Nội kiểm là do chính phòng xét nghiệm đó thực hiện theo từng thiết bị xét nghiệm. Ngoại kiểm là kiểm soát chất lượng, đối chiếu và so sánh kết quả xét nghiệm với kết quả của phòng xét nghiệm khác trên cùng một mẫu, so sánh với kết quả xét nghiệm của phòng xét nghiệm tham chiếu trong nước hoặc quốc tế. Việc thực hiện nội kiểm và ngoại kiểm là rất cần thiết để bảo đảm độ chính xác và tin cậy của xét nghiệm. Các phòng xét nghiệm thuộc cơ sở khám chữa bệnh công lập hay tư nhân đều phải thực hiện nội kiểm và tham gia các chương trình ngoại kiểm. Hiện nay, trong nước đã thành lập 3 trung tâm kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm để giúp các phòng xét nghiệm thực hiện việc này, mỗi năm thực hiện gần 4.000 lượt chương trình ngoại kiểm cho các phòng xét nghiệm. Số các BV công và BV tư tham gia tăng đều qua các năm. Thông qua báo cáo của các trung tâm kiểm chuẩn, Bộ Y tế sẽ biết được việc tuân thủ của các BV, từ đó tiếp tục có chỉ đạo thực hiện kiểm chuẩn xét nghiệm nghiêm túc hơn.
Theo Thanh Niên