Hồn Việt mang ra thế giới
Tự hào nón lá Việt Nam
Từ xa xưa cho đến bây giờ hình ảnh người phụ nữ thướt tha trong tà áo dài truyền thống với chiếc nón lá hoặc áo tứ thân, nón quai thao đã in đậm trong tâm thức người Việt. Chiếc nón lá theo người phụ nữ trên mọi nẻo đường. Từ đồng ruộng lam lũ đến công trường nắng gió. Từ những cuộc mưu sinh thường nhật đến những ngày lễ trọng đại đối với cả đời người khi nàng dâu trong ngày cưới được mẹ chồng trao cho chiếc nón. Và ngày nay chiếc nón còn lên cả những sàn diễn rực rỡ ánh đèn màu. Khách du lịch đến Việt Nam bỗng nhận ra, hình ảnh chiếc nón lá không chỉ là một thứ đội đầu để che nắng che mưa nơi vùng nhiệt đới mà còn là biểu tượng cho sự dịu dàng của người con gái Việt.
Chiếc nón lá như là sản vật văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền. Ở nước ta trải dài khắp Bắc- Trung- Nam đều có những làng làm nón. Mỗi loại nón ở từng địa phương lại có những sắc thái riêng. Nhưng nón làng Chuông vẫn là loại nón nổi tiếng nhất vùng đồng bằng Bắc bộ. Nón làng Chuông vốn rất đẹp lại bền, làm tăng thêm vẻ đẹp dịu dàng của người phụ nữ Việt Nam. Xa xưa nón làng Chuông là cống vật tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng được làm nên bởi những bàn tay tài hoa khéo léo của các nghệ nhân lành nghề. Ngày nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước. Trung bình mỗi ngày, dân làng làm được khoảng 7.000 chiếc nón đưa đi khắp nơi, sang cả Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu.
Nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội chừng gần 40km, làng Chuông thuộc xã Phương Trung, huyện Thanh Oai (Hà Nội). Theo các cụ cao niên trong làng kể lại thì nghề làm nón đã có từ cách đây hơn 300 năm về trước. Cả làng chỉ có một nghề duy nhất là làm nón để bán cho thiên hạ. Ngày xa xưa, làng Chuông chỉ làm nón Ba Tầm, Quai thao, áo tơi, mãi sau này mới làm nón như bây giờ.Không thanh mảnh như chiếc nón bài thơ xứ Huế, nón lá làng Chuông dày dặn, cứng cáp mà vẫn thanh lịch, duyên dáng, đậm chất nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
Nón làng Chuông- nét đẹp truyền thống văn hóa Việt. Ảnh: Hồ Sỹ Anh
Theo lời nghệ nhận Phạm Trần Canh thì để có được chiếc nón đẹp và bền phải trải qua rất nhiều công đoạn. Ðầu tiên là việc chọn lá. Lá nón được lấy từ một loại cây họ nhà cọ ở vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Người ta phải lựa loại lá mầu sáng và xanh đều thì nón mới đẹp. Lá khi được mua về sẽ được vò trong cát để lá mềm rồi mới đem phơi khoảng hai, ba nắng cho đến khi mầu xanh của lá chuyển thành mầu bạc trắng. Sau đó sấy thêm bằng bếp củi, bếp đun lửa nhỏ để lá khô dần mà không bị giòn, không bị nát. Vòng nón làm bằng cật nứa được vót nhỏ và tròn, đặc biệt là phải thật đều khi nối với nhau thì nuột nà, trơn tru, tuyệt đối không được lẹm, vênh. Nón làng Chuông có 16 vòng, khuôn tám gọng.
Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu, người thợ bắt đầu vào những công đoạn chính là "quai nón" và khâu nón. Người thợ khéo léo xếp lần lượt từng chiếc lá nón đã chọn sẵn lên khung nón, một lớp mo tre ở giữa hai lớp lá rồi bắt đầu khâu. Khâu nón là công đoạn khó nhất. Người khâu nón cũng được ví như người thợ thêu. Bàn tay người thợ cầm kim đưa nhanh thoăn thoắt, mềm mại từng mũi khâu, thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài.
Cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã hình thành. Khi chiếc nón được khâu xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón không mốc. Cẩn thận hơn có thể quang dầu bên ngoài nón để làm cho nón bóng, đẹp và bền lâu.
Văn hóa Việt mang ra thế giới
Chiếc nón lá nhỏ bé vốn quen thuộc với người dân được bán trong các phiên chợ làng, trên những sạp hàng quê ở hầu khắp các thị trường phía Bắc. Không những vậy, khách hàng trong Nam chỉ cần gọi điện đặt số lượng, thoả thuận giá cả thống nhất, người làng Chuông sẽ tập kết nón gần bến xe Hà Đông, ngay lập tức chuyển hàng đi. Một số du khách nước ngoài yêu quý chiếc nón Việt đã về tận làng Chuông để tham quan và mua những món quà lưu niệm mang về quê hương. Từ nhiều năm nay những sản phẩm nón lá mang thương hiệu làng Chuông đã theo chân người đi khắp năm châu bốn bể từ thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông… khó tính đến cả châu Úc, châu Âu xa xôi. Hiện nay, làng Chuông cung cấp cho thị trường khoảng 3 triệu chiếc nón mỗi năm. Những chiếc nón đã làm giàu cho những người dân quê và góp nên kỳ tích xuất khẩu cho đất nước. Đó có lẽ là món quà động viên quý giá nhất giúp người dân nơi đây vững tin hơn để giữ gìn và phát triển nghề truyền thống.
Người đầu tiên đã lặn lội xuôi ngược tìm thị trường cho chiếc nón quê vươn ra thế giới đó là chị Tạ Thu Hương, khi ấy mới 20 tuổi. Bắt đầu bằng đơn hàng xuất khẩu 20.000 chiếc nón đi Nhật Bản. Sau chuyến xuất ngoại thành công ấy, nón làng Chuông đều đặn lên máy bay sang Nhật, rồi Hàn Quốc, Malaysia… Nhiều vị khách nước ngoài đã tìm về làng Chuông đặt chị Hương làm nón. Ban đầu chỉ là hai loại truyền thống là nón tròn và nón quai thao, dần dần chị sáng tạo thêm các loại nón mới là nón to, nón bộ, nón chao đèn, nón lụa… tính ra có đến 50 - 60 chục mẫu. Người làng Chuông mới chỉ làm ra chiếc nón mấy chục nghìn đồng nhưng nón của nghệ nhân Tạ Thu Hương đã bán được tiền triệu, đó là 12 chiếc nón lá có đường kính từ 30 - 360cm ghép thành hình cây thông Noel trưng bày ở một khách sạn 5 sao trong thành phố Hồ Chí Minh dịp Giáng sinh năm 2010.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian và biến thiên của lịch sử, nghề làm nón làng Chuông vẫn tồn tại và phát triển. Điều đó cho thấy, việc gìn giữ các nét đẹp văn hóa cổ truyền không phải là điều quá khó, vấn đề là phải tìm ra cách thức phù hợp. Ngày nay, làng Chuông dần trở thành một địa chỉ dụ lịch hấp dẫn của Thủ đô. Ngôi làng nghề nhỏ bé này luôn tấp nập khách ra vào không chỉ để đặt hàng, mà còn để tham quan, tận mắt chứng kiến công việc làm nón. Nón làng Chuông vốn rất đẹp lại bền, làm tăng thêm vẻ đẹp dịu dàng của người phụ nữ Việt Nam trên mọi nẻo đường và đang ngày càng vươn xa tới các thị trường quốc tế.